So Sánh Tình Hình Kinh Tế (X-XV) với kinh tế (XVI-XVIII).Qua đó em có nhận xét gì
0 bình luận về “So Sánh Tình Hình Kinh Tế (X-XV) với kinh tế (XVI-XVIII).Qua đó em có nhận xét gì”
XVI-XVIII
– Từ cuối thế kỷ XV đến nửa đầu thế kỷ XVII, nông nghiệp sa sút, mất mùa đói kém liên miên, bị chiến tranh tàn phá
– Từ nửa sau thế kỷ XVII, tình hình chính trị ổn định, nông nghiệp ở Đàng Trong và Đàng Ngoài phát triển:
+ Ruộng đất ở cả 2 đàng mở rộng, nhất là ở Đàng Trong.
+ Thủy lợi được củng cố.
+ Giống cây trồng ngày càng phong phú.
+ Kinh nghiệm sản xuất được đúc kết.
– Nghề thủ công cổ truyền tiếp tục phát triển đạt trình độ cao: dệt, gốm,rèn sắt, đúc đồng, làm đồ trang sức..
– Một số nghề mới xuất hiện như: khắc in bản gỗ, làm đường trắng, làm đồng hồ, làm tranh sơn mài.
– Khai mỏ – một ngành quan trọng rất phát triển ở Đàng Trong và Đàng Ngoài.
– Các làng nghề thủ công xuất hiện ngày càng nhiều như làm giấy, gốm sứ, nhuộm vải …..
– Nét mới trong kinh doanh: ở các đô thị thợ thủ công đã lập phường hội, vừa sản xuất vừa bán hàng
Ở Đàng Trong: ruộng đất nhanh chóng mở rộng, đất đai phì nhiêu, thời tiết thuận lợi, trồng lúa, hoa màu, cây ăn trái. Ở cả 2 Đàng chế độ tư hữu ruộng đất phát triển. Ruộng đất ngày càng tập trung trong tay địa chủ.
Nội thương: ở các thế kỷ XVI – XVIII buôn bán trong nước phát triển:
– Chợ làng, chợ huyện… xuất hiện làng buôn và trung tâm buôn bán
– Buôn bán lớn (buôn chuyến, buôn thuyền) xuất hiện.
– Buôn bán giữa miền xuôi và miền ngược phát triển, thóc gạo ở Gia Định được đem ra các dinh miền Trung để bán ….
Ngoại thương phát triển mạnh.
– Thuyền buôn các nước Bồ Đào Nha, Hà Lan, Pháp, Anh đến VN buôn bán tấp nập:
+ Bán vũ khí, thuốc súng, len dạ, bạc, đồng…..
+ Mua: tơ lụa, đường gốm, nông lâm sản.
– Thương nhân nhiều nước đã tụ hội lập phố xá, cửa hàng buôn bán lâu dài.
– Giữa thế kỉ XVIII ngoại thương suy yếu dần do chế độ thuế khóa của nhà nước ngày càng phức tạp.
X-XV
– Diện tích đất ngày càng mở rộng – Thủy lợi được quan tâm. + Năm 1248 : Đặt cơ quan Hà đê sứ trông nom đê điều. – Quan tâm bảo vệ sức kéo, phát triển các giống cây nông nghiệp. => Đời sống nhân dân ấm no hạnh phúc, trật tự xã hội ổn định, độc lập được củng cố
– Các nghề thủ công cổ truyền như: Đúc đồng, rèn sắt, làm gốm, dệt ngày càng phát triển chất lượng sản phẩm ngày càng được nâng cao
.- Các ngành nghề thủ công ra đời nhưThổ Hà, Bát Tràng.
+ Do truyền thống nghề nghiệp vốn có, trong bối cảnh đất nước có điều kiện phát triển mạnh. + Do nhu cầu xây dựng cung điện, đền chùa nên nghề sản xuất gạch, chạm khắc đá đều phát triển.
Nội thương:
– Các chợ làng, chợ huyện, chợ chùa mọc lên ở khắp nơi, là nơi nhân dân trao đổi sản phẩm nông nghiệp và thủ công nghiệp.
– Kinh đô Thăng Long trở thành đô thị lớn (36 phố phường) ,trung tâm buôn bán và làm nghề thủ công.
Ngoại thương
– Thời Lý – Trần ngoại thương khá phát triển, nhà nước cho xây dựng nhiều bến cảng để buôn bán với nước ngoài.
– Vùng biên giới Việt Trung cũng hình thành các đặc điểm buôn bán.
XVI-XVIII
– Từ cuối thế kỷ XV đến nửa đầu thế kỷ XVII, nông nghiệp sa sút, mất mùa đói kém liên miên, bị chiến tranh tàn phá
– Từ nửa sau thế kỷ XVII, tình hình chính trị ổn định, nông nghiệp ở Đàng Trong và Đàng Ngoài phát triển:
+ Ruộng đất ở cả 2 đàng mở rộng, nhất là ở Đàng Trong.
+ Thủy lợi được củng cố.
+ Giống cây trồng ngày càng phong phú.
+ Kinh nghiệm sản xuất được đúc kết.
– Nghề thủ công cổ truyền tiếp tục phát triển đạt trình độ cao: dệt, gốm,rèn sắt, đúc đồng, làm đồ trang sức..
– Một số nghề mới xuất hiện như: khắc in bản gỗ, làm đường trắng, làm đồng hồ, làm tranh sơn mài.
– Khai mỏ – một ngành quan trọng rất phát triển ở Đàng Trong và Đàng Ngoài.
– Các làng nghề thủ công xuất hiện ngày càng nhiều như làm giấy, gốm sứ, nhuộm vải …..
– Nét mới trong kinh doanh: ở các đô thị thợ thủ công đã lập phường hội, vừa sản xuất vừa bán hàng
Ở Đàng Trong: ruộng đất nhanh chóng mở rộng, đất đai phì nhiêu, thời tiết thuận lợi, trồng lúa, hoa màu, cây ăn trái. Ở cả 2 Đàng chế độ tư hữu ruộng đất phát triển. Ruộng đất ngày càng tập trung trong tay địa chủ.
Nội thương: ở các thế kỷ XVI – XVIII buôn bán trong nước phát triển:
– Chợ làng, chợ huyện… xuất hiện làng buôn và trung tâm buôn bán
– Buôn bán lớn (buôn chuyến, buôn thuyền) xuất hiện.
– Buôn bán giữa miền xuôi và miền ngược phát triển, thóc gạo ở Gia Định được đem ra các dinh miền Trung để bán ….
Ngoại thương phát triển mạnh.
– Thuyền buôn các nước Bồ Đào Nha, Hà Lan, Pháp, Anh đến VN buôn bán tấp nập:
+ Bán vũ khí, thuốc súng, len dạ, bạc, đồng…..
+ Mua: tơ lụa, đường gốm, nông lâm sản.
– Thương nhân nhiều nước đã tụ hội lập phố xá, cửa hàng buôn bán lâu dài.
– Giữa thế kỉ XVIII ngoại thương suy yếu dần do chế độ thuế khóa của nhà nước ngày càng phức tạp.
X-XV
– Diện tích đất ngày càng mở rộng
– Thủy lợi được quan tâm.
+ Năm 1248 : Đặt cơ quan Hà đê sứ trông nom đê điều.
– Quan tâm bảo vệ sức kéo, phát triển các giống cây nông nghiệp.
=> Đời sống nhân dân ấm no hạnh phúc, trật tự xã hội ổn định, độc lập được củng cố
– Các nghề thủ công cổ truyền như: Đúc đồng, rèn sắt, làm gốm, dệt ngày càng phát triển chất lượng sản phẩm ngày càng được nâng cao
.- Các ngành nghề thủ công ra đời nhưThổ Hà, Bát Tràng.
+ Do truyền thống nghề nghiệp vốn có, trong bối cảnh đất nước có điều kiện phát triển mạnh. + Do nhu cầu xây dựng cung điện, đền chùa nên nghề sản xuất gạch, chạm khắc đá đều phát triển.
Nội thương:
– Các chợ làng, chợ huyện, chợ chùa mọc lên ở khắp nơi, là nơi nhân dân trao đổi sản phẩm nông nghiệp và thủ công nghiệp.
– Kinh đô Thăng Long trở thành đô thị lớn (36 phố phường) ,trung tâm buôn bán và làm nghề thủ công.
Ngoại thương
– Thời Lý – Trần ngoại thương khá phát triển, nhà nước cho xây dựng nhiều bến cảng để buôn bán với nước ngoài.
– Vùng biên giới Việt Trung cũng hình thành các đặc điểm buôn bán.
– Thời Lê: Ngoại thương bị thu hẹp.