sưu tầm những mẩu truyện viết về ngày quân đội nhân dân Việt Nam 22 tháng 12 (được copy mạng)

sưu tầm những mẩu truyện viết về ngày quân đội nhân dân Việt Nam 22 tháng 12 (được copy mạng)

0 bình luận về “sưu tầm những mẩu truyện viết về ngày quân đội nhân dân Việt Nam 22 tháng 12 (được copy mạng)”

  1. Tấm lòng của Bác với thương binh, liệt sĩ

    Ngày 10 tháng 3 năm 1946  báo Cứu quốc đăng thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào Nam Bộ. Trong thư có đoạn Người viết: “Tôi xin kính cẩn cúi chào vong linh các anh chị em đã bỏ thân vì nước và các đồng bào đã hy sinh trong cuộc đấu tranh cho nước nhà. Sự hy sinh đó không phải là uổng”.

    Tiếp sau đó, trong Thư gửi đồng bào miền Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại viết: “Tôi nghiêng mình trước anh  hồn những chiến sĩ và đồng bào Việt Nam đã vì Tổ quốc mà hy sinh anh dũng”.

    Hơn nửa tháng sau khi đi Pháp về, ngày 7 tháng 11 năm 1946,  Người đã đến dự lễ “Mùa đông binh sĩ” do Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam tổ chức tại Nhà hát lớn thành phố Hà Nội, vận động đồng bào ở hậu phương đóng góp tiền của để may áo trấn thủ cho chiến sĩ, thương binh, bệnh binh.

    Cuộc kháng chiến toàn quốc chống Pháp đã thu hút nhiều thanh niên nam nữ tham gia quân đội. Một số chiến sĩ đã hy sinh anh dũng, một số nữa là thương binh, bệnh binh, đời sống gặp nhiều khó khăn, mặc dầu anh chị em tình nguyện chịu đựng không kêu ca, phàn nàn.

    Trước tình hình ấy, tháng 6 năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị Chính phủ chọn một ngày nào đó trong năm làm “Ngày thương binh” để đồng bào ta có dịp tỏ lòng hiếu nghĩa, yêu mến thương binh. Có lẽ – trừ những ngày kỷ niệm  quốc tế – “Ngày thương binh” là ngày kỷ niệm trong nước đầu tiên được tổ chức.

    Hưởng ứng và đáp lại tấm lòng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một hội nghị trù bị đã khai mạc tại xã Phú Minh, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên gồm có một số đại biểu ở Trung ương, khu và tỉnh. Hội  nghị nhất trí lấy ngày 27 tháng 7 hàng năm là ngày thương binh liệt sĩ và tổ chức ngay lần đầu trong năm 1947.

    Báo Vệ quốc quân số 11, ra ngày 27 tháng 7 năm 1947 đã đăng thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Thường trực Ban tổ chức ” Ngày thương binh toàn quốc ” Đầu thư Người viết :” Đang khi Tổ quốc lâm nguy, giang sơn, sự nghiệp, mồ mả, đền chùa, nhà  thờ của tổ tiên ta bị uy hiếp. Cha mẹ, anh  em, vợ con, ao vườn, làng mạc ta bị nguy ngập. Ai là người xung phong trước hết để chống cự quân thù? Đó là những chiến sĩ mà nay một số đã thành ra thương binh”.

    Chủ tịch Hồ Chí Minh  giải thích:”thương binh là người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào. Vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào mà các đồng chí đã chịu ốm yếu, què quặt. Vì vậy, Tổ quốc và đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy “.

    Cuối thư, Người vận động đồng bào nhường cơm sẻ áo, giúp đỡ thương binh. Bản thân Người đã xung phong góp chiếc áo lụa, một tháng lương và tiền ăn một bữa của Người và của tất cả các nhân viên của Phủ Chủ tịch, tổng cộng là một ngàn một trăm hai mươi bảy đồng (1.127 đồng) để tặng thương binh.

    Năm sau, ngày 27 tháng 7 năm 1948, trong một thư dài đầy tình thương yêu, Bác nói: ” Nạn ngoại xâm như trận lụt to đe dọa tràn ngập cả non sông Tổ quốc, đe dọa cuốn trôi cả tính mệnh, tài sản, chìm đắm cả bố mẹ, vợ con, dân ta. Trong cơn nguy hiểm ấy, số đông thanh niên yêu quý của nước ta quyết đem xương máu của họ đắp thành một bức tường đồng, một con đê vững để ngăn cản nạn ngoại xâm tràn ngập Tổ quốc, làm hại đồng bào”.

    Người xót xa viết: ” Họ quyết liều chết chống địch, để cho Tổ quốc và đồng bào sống. Ngày nay, bố mẹ họ mất một người con yêu quý. Vợ trẻ trở nên bà goá. Con dại trở nên mồ côi. Trên bàn thờ gia đình thêm một linh bài tử sĩ. Tay chân tàn phế của thương binh sẽ không mọc lại được. Và những tử sĩ sẽ không thể tái sinh”.

     

    Bác Hồ với Quân đội nhân dân Việt Nam qua những bức ảnhTừ đội tuyên truyền giải phóng quân đến những cuộc trường chinh vĩ đại giải phóng dân tộc đều mang đậm dấu ấn của vị Cha già dân tộc – người luôn dõi theo từng bước phát triển của lực lượng vũ trang chính quy – Quân đội nhân dân Việt Nam.Ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập tại khu rừng Trần Hưng Đạo (huyện Nguyên Bình, tinh Cao Bằng) với 34 chiến sĩ. Đây được coi là tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam – lực lượng vũ trang “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, vì nhân dân phục vụ”.Trong 68 năm hình thành và phát triển, Quân đội nhân dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã góp phần quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Sinh thời, Bác Hồ đã dành những tình cảm yêu mến đối với những người “đầu sóng ngọn gió”, ngày đêm chịu đựng gian khổ và hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc.Dù bận nhiều công việc, Người vẫn dành thời gian chăm sóc và giáo dục, rèn luyện các lực lượng vũ trang nhân dân. Trong các chiến dịch lớn, Bác luôn dành thời gian đi thăm, động viên các đơn vị bộ đội. Và sau mỗi chiến dịch, mỗi thắng – bại của cuộc trường chinh vĩ đại, Người luôn kịp thời động viên, biểu dương các cá nhân, đơn vị lập công xuất sắc và phê bình những việc của tốt của cán bộ, chiến sĩ.Ngay cả khi trước lúc đi xa, người để lại di chúc căn dặn Đảng, Nhà nước, Chính phủ và nhân dân ta phải làm tốt chính sách đền ơn, đáp nghĩa đối với những người đã hi sinh một phần xương máu cho sự nghiệp cứu nước.Sự quan tâm của Bác đối với lực lượng vũ trang nhân dân thể hiện bằng những việc làm cụ thể, bình dị nhưng chứa chan tình cảm của vị Cha già dân tộc. Và cũng vinh dự và tự hào thay, lực lượng chính quy, tinh nhuệ này đã được gọi với cái tên hết sức thân mật – Bộ đội cụ Hồ.

    Bình luận
  2. Ngày 22/12 hàng năm là ngày hội truyền thống của cả dân tộc, ghi nhận và tôn vinh những đóng góp to lớn của Quân đội trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Sự ra đời của Quân đội ta là một sự kiện lịch sử trọng đại của cách mạng Việt Nam. Lần đầu tiên trong lịch sử, giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam có một Quân đội kiểu mới do Đảng cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, giáo dục, rèn luyện; một Quân đội của dân, do dân, vì dân, mang bản chất giai cấp công nhân; chiến đấu vì độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân.

    “Hòa bình, độc lập, tự do” là ba từ thiêng liêng mà dân tộc ta đã phải đánh đổi bằng mấy ngàn năm lịch sử gian khổ và hào hùng. Hơn bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, ông cha ta đã lập được nhiều kì tích trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, ghi vào pho sử vàng dân tộc nhiều chiến công hiển hách. Những chiến công đó mãi là niềm tự hào của con dân đất Việt. Biết bao thế hệ cha anh đã hăng hái lên đường theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc. Họ bỏ lại sau lưng những người mẹ già, những người vợ trẻ và những đứa con thơ để lên đường tham gia kháng chiến. Họ mang một nỗi niềm chia li nhưng vẫn sắt đá một tinh thần quyết chiến vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Ý chí đó không ít lần đi vào những trang thơ, trang văn của biết bao nghệ sĩ yêu nước: “Người ra đi đầu không ngoảnh lại – Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”.Những con người kiên cường ấy đã cống hiến hết tuổi thanh xuân của mình, góp máu xương để giải phóng trọn vẹn đất nước. Các anh, các chị đã mãi mãi yên nghỉ trong lòng đất mẹ để chúng ta hôm nay được sống trong độc lập tự do. Hòa bình, hạnh phúc và sự phát triển mà chúng ta đang có hôm nay là thành quả của sự hi sinh to lớn của các anh hùng, liệt sĩ ngày hôm qua. Để báo đáp công ơn ấy và kế thừa truyền thống đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc, hơn ai hết chúng ta cần phải ghi sâu lời dạy năm xưa của Bác “Thương binh, bệnh binh, gia đình quân nhân, gia đình liệt sỹ là những người có công với tổ quốc, với nhân dân, bổn phận của chúng ta là phải biết ơn, phải thương yêu và giúp đỡ họ”…

    Chúng tôi những thế hệ trẻ, sinh ra và lớn lên trong thời bình, chưa thực sự hiểu hết những gian khổ, hi sinh của các thế hệ đi trước. Nhưng ngày hôm nay, trong giờ phút trang nghiêm, trọng thể này, với lòng kính yêu và biết ơn vô hạn, chúng ta thành kính tưởng nhớ Chủ Tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, lãnh tụ thiên tài của Đảng, của nhân dân ta; Người anh hùng giải phóng dân tộc; Danh nhân văn hoá thế giới; và là người Cha thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân. Chúng ta bày tỏ lòng kính trọng và tri ân sâu sắc các anh hùng liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, cựu chiến binh, thanh niên xung phong đã anh dũng chiến đấu, hy sinh, hiến trọn đời mình cho lý tưởng cách mạng của Đảng và dân tộc, cho sự nghiệp xây dựng, chiến đấu và chiến thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam. Các Bà mẹ Việt Nam anh hùng, đã sinh thành, nuôi dưỡng và hiến dâng cho Tổ quốc những người con ưu tú, dũng cảm vượt lên muôn vàn mất mát thương đau, hết lòng đùm bọc, chở che, kề vai sát cánh cùng các lực lượng vũ trang đánh giặc cứu nước. Cảm ơn những người lính cụ Hồ đã luôn quan tâm ưu ái, thắp lên ngọn lửa tin yêu cho thế hệ trẻ hôm nay.

    Bình luận

Viết một bình luận