tìm hiểu về “con đường tơ lụa” thời nhà Đường, những tầm nhìn và giá trị lịch sử của “con đường tơ lụa”
ANH EM GIÚP MÌNH VỚI CẦN GẤP!!!
tìm hiểu về “con đường tơ lụa” thời nhà Đường, những tầm nhìn và giá trị lịch sử của “con đường tơ lụa”
ANH EM GIÚP MÌNH VỚI CẦN GẤP!!!
– Trung Quốc là nước có lai lịch dâu tằm tơ sớm nhất Thế Giới.
– Tinh hoa VH và KT của Trung với nc phương Tây giao lưu rộng.
+ Mặt hàng tơ lụa, kỹ thuật trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa, …
+ Được truyền bá qua các nc Trung Á và Tây Âu.
– Các mặt hàng mỹ nghệ, phát minh khoa học : in ấn, thuốc súng, luyện thép, …
+ Tiếp tục theo “Con đường tơ lụa” truyền bá qua phương Tây.
– Sản vật Trung Tây Á như nho, lựu, hạt điều, gai, Ba Thái, …
+ Cũng theo nó đổ vào Trung, ngành nghệ thuật: hội họa, điêu khắc, …
⇒ Qua đó, chúng cũng đã bị ảnh hưởng đến nhau rất sâu đậm.
– Chúng cũng đã mở ra thời kỳ ngoại giao mới cho Trung Quốc.
+ Thời Nguyên Mông (khoảng CN 1218 – 1242).
+ Thành Cát Tư Hãn, hậu duệ của ông (Thuật Xích, Oa Khoát Đài).
* Cũng theo ”con đường tơ lụa” để chinh phục nhiều nước Châu Âu.
– Họ còn đe dọa đến cả đế quốc La Mã.
⇒ “Con đường tơ lụa” được khai mở từ mối lợi của các thương nhân.
– Hoàn chỉnh bằng vai trò lịch sử trọng đại từ kinh tế, văn hóa, tôn giáo.
– Chính trị bang giao và cả chiến lược.
– Huyết mạch giao lưu văn hóa, văn minh Đông Tây hơn 17 thế kỷ.
– Bắt đầu từ khi nhân loại chưa có đường hàng hải và hàng không.
+ Sau do sự phát triển đường hàng hải, ít gian nan, nguy hiểm hơn !
⇒ Con đường bộ xuyên suốt Đông Tây ngày càng ít được lưu tâm đến.
Trung Quốc là nước có lai lịch dâu tằm tơ sớm nhất Thế Giới. Truyền thuyết từ hơn 4.000 năm trước, thời Hoàng Đế (lão tổ của người Trung Quốc), các nguyên phi đã tự trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa và dạy dân mở mang nghề này. Năm 1958, tại vùng Tiền Sơn thuộc huyện Thiệu Hưng, tỉnh Triết Giang, người ta đã đào được những di vật thời Tân Thạch Khí, trong đó phát hiện một khung tre rất đặC biệt. Những phương pháp khảo sát khoa học đã xác định được đây là bộ phận còn sót của một khung cửi dệt tơ lụa thời cổ đại, một di vật cách đây hơn 4.000 năm. Qua đó có thể xác định, trễ nhất là từ thời Hoàng Đế, người Trung Quốc đã có khả năng dệt tơ lụa.
Lịch sử qua thời kỳ bán khai, trang phục đã trở thành nhu cầu cấp thiết hàng đầu của toàn xã hội. Do đó mà ngành nghề dâu tằm ngày càng được trọng thị. “Kinh Thi” (tác phẩm thi ca lâu đời của văn học Trung Quốc) cũng có không ít bài mô tả sinh hoạt trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa của phụ nữ Trung Quốc thời cổ đại.
Khoảng 2.500 năm trước, vào thời Xuân Thu Chiến Quốc (770 – 221 TCN), Trung Quốc đã có lượng tơ lụa bán ra nước ngoài. Tới Tây Hán (206 TCN – CN 8) sản lượng tơ lụa càng cao dư dùng trong nước. Một số lớn được các thương nhân mở đường xuyên Tây Vực, đem bán tận Ba Tư, Thổ Nhĩ Kì, La Mã, …. Qua việc mở đường buôn bán tơ lụa từ Trung Nguyên đến các nước Trung Tây Á và phương Tây, không biết từ lúc nào, còn đường được mệnh danh là “Con đường tơ lụa”.
Tây Vực là địa danh được hình thành từ thời Tây Hán. Bao gồm hàng trăm tiểu vương quốc trải dài từ Tân Cương đến vùng Trung Á Tế Á. Tức khu vực có địa giới từ con đường Nam Bắc Thiên Sơn của Tân Cương, vượt núi Thông Lãnh đổ về phía Đông và từ Đôn Hoàng (Cam Túc) đổ về phía Tây. Tây Vực là vùng đất con đường tơ lụa buộc phải đi qua và cũng là biên cảnh giữa Trung Quốc với các dân tộc phía Bắc và Tây Bắc. Vì an toàn lãnh thổ trước sự xâm nhập bên ngoài và cũng vì muốn độc chiếm huyết mạch giao lưu Đông Tây nên từ đời Hán – Đường, Tây Vực thường xảy ra chiến tranh với những lực lượng quân sự hùng hậu. Thậm chí có những cuộc chiến kéo dài hàng thập kỷ. Trong khi dân tình, cảnh vật và khí hậu nơi đây so với Trung Nguyên, có những bất đồng rất lớn.
“Con đường tơ lụa” phát xuất từ Trường An (nay là thành phố Tây An tỉnh Thiểm Tây) hướng về phía Tây, sau khi qua nhiều sông núi và thành trấn, được chia thành ba lộ tuyến: Lộ tuyến Nam từ phía Tây Nam Đôn Hoàng ra Dương Quan đi qua Thạch Thành Trấn, Bá Tiên Trấn, Vu Điền Trấn và tiểu vương quốc Sơ Lặc, sau đó vượt phía Tây núi Thông Lãnh về đến Ba Tư, Thổ Nhĩ Kì và đế quốc La Mã. Lộ tuyến Bắc từ phía Tây Bắc Đôn Hoàng ra Ngọc Môn Quan, men theo phía Nam chân núi Thiên Sơn đi về phía Tây, qua Tây châu, Hán Luân Đài, đến các tiểu vương quốc Khưu Từ và Sơ Lặc, sau đó cũng vượt núi Thông Lãnh. Về sau, vì sự tính toán lợi hại của đường đất, các thương nhân còn mở thêm một lộ tuyến mới phía Bắc, tức cũng ra Ngọc Môn quan, nhưng theo phía Bắc chân núi Thiên Sơn để đi về hướng Tây. Sau khi qua Đình Châu và Y Ninh, tiếp tục về hướng Tây đến Hy Lạp, Đông La Mã và Địa Trung Hải.
“Con đường tơ lụa” được khai mở từ Tây Hán, hoàn chỉnh vào đời Đường và được sử dụng suốt 17 thế kỷ. Về sau do sự phát triển đường hàng hải, ít gian nan và nguy hiểm hơn, nên con đường bộ xuyên suốt Đông Tây này ngày càng ít được lưu tâm.
Do sự thông thương của “Con đường tơ lụa”, những tinh hoa văn hóa, kinh tế giữa Trung Quốc và các nước phương Tây cũng giao lưu rất rộng rãi. Đầu tiên là mặt hàng tơ lụa, đến thế kỷ thứ 4, khi kỹ thuật trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa được truyền bá qua các nước Trung Á và Tây Aù thì từ các mặt hàng mỹ nghệ khác đến những phát minh khoa học như thuật in ấn, làm giấy, thuốc súng, luyện thép, … của Trung Quốc cũng tiếp tục theo “Con đường tơ lụa” truyền bá qua phương Tây. Đồng thời những sản vật vùng Trung Tây Á như Bồ Đào (Nho), Thạch Lựu (quả lựu), Hạch Đào (hạt điều), Chi Ma (gai), Ba Thái, Mục Túc (hai giống rau quả), … cũng theo ngã đường này lục tục đổ vào Trung Quốc. Cả các ngành nghệ thuật: hội họa, điêu khắc, âm nhạc, vũ khúc,… qua đó, cũng ảnh hưởng nhau rất sâu đậm.
Thời Tây Hán (khoảng 141 TCN), Trương Khiên đã theo “Con đường tơ lụa) thông sứ Tây Vực, khám phá hàng trăm tiểu vương quốc trải dài suốt mấy ngàn dặm thảo nguyên và sa mạc, mở ra thời kỳ ngoại giao mới cho Trung Quốc.
Thời Sơ Đường (Cn 624 – 649), Huyền Trang cũng theo “Con đường tơ lụa” đi qua nhiều nước vùng Tây Vực, hành hương đến xứ Phật Aán Độ. Trong khi nhiều giáo sĩ phương Tây cũng theo đó, đưa giáo lý của nhiều tôn giáo khác nhau đến Trung Nguyên.
Đời Đường là thời kỳ phát triển cao độ của thi ca Trung Quốc. Vùng đất Tây Vực là đề tài chính sinh động giàu cảm xúc của nhiều nhà thơ đương thời. Hầu hết các thi nhân đã cọ xác trực tiếp với cảnh sinh hoạt và chiến tranh, những nỗi bi hoan ly hợp và cả cái chết trên những địa danh dọc theo “Con đường tơ lụa” họ đã sáng tác số lượng lớn các bài thơ giá trị được mệnh danh “Thơ biên tái”. Một thành phần trọng yếu làm phong phú nền thi ca đời Đường. Trong văn học sử Trung Quốc, những nhà thơ này cũng được đứng riêng thành một trường phái lớn gọi là “phái Biên Tái”, đại biểu là Sầm Tham, Cao Thích, Vương Xương Linh, Lý Ích, Trần Đào, ….
Thời Nguyên Mông (khoảng CN 1218 – 1242), Thành Cát Tư Hãn rồi đến các hậu duệ của ông (con trưởng Thuật Xích và con thứ Oa Khoát Đài) cũng theo con đường tơ lụa chinh phục nhiều nước Châu Aâu và đe dọa cả đế quốc La Mã.
“Con đường tơ lụa” được khai mở từ mối lợi của các thương nhân, nhưng được hoàn chỉnh bằng vai trò lịch sử trọng đại từ kinh tế, văn hóa, tôn giáo, chính trị bang giao và cả chiến lược. Đó là huyết mạch giao lưu văn hóa văn minh Đông Tây suốt hơn 17 thế kỷ, khi nhân loại chưa có đường hàng hải và hàng không.