– 7/2/1418, Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn và tự xưng là Bình Định Vương
– Những năm đầu thì nghĩa quân gặp nhiều khó khăn và thử thách:
+ Lực lượng còn non yếu
+ Bị quân Minh liên tục tấn công, bao vây
+ Phải 3 lần rút lên núi Chí Linh
+ Thiếu lương thực, thực phẩm trầm trọng
-> Năm 1423, Lê Lợi đề nghị tạm hòa với quân Minh
– Năm 1424, quân Minh trở mặt tấn công
=> Cuộc khởi nghĩa chuyển sang giai đoạn mới
– Theo kế hoạch của Nguyễn Chích, Lê Lợi chấp thuận chuyển nghĩa quân vào Nghệ An
– 12/10/1424, tập kích bất ngờ đồn Đa Căng (Thanh Hóa), sau đó hạ thành Trà Lân
– Trên đà chiến thắng, nghĩa quân tiến đánh quân giặc ở Khả Lưu
-> Phần lớn Nghệ An được giải phóng
– Tháng 8/1425, Trần Nguyên Hãn, Lê Ngân chỉ huy ở Nghệ An nhanh chóng giải phóng Tấn Bình, Thuận Hóa
– Trong vòng 10 tháng (từ tháng 10/1424 -> tháng 8/1425), nghĩa quân giải phóng Thanh Hóa đến đèo Hải Vân
– Tháng 9/1426, Lê Lợi chia làm 3 đạo quân tiến quân ra Bắc
+ Đạo 1: giải phóng Tây Bắc
+ Đạo 2: giải phóng hạ lưu sông Nhị
+ Đạo 3: tiến thẳng ra Đông Quan
-> Kết quả: Quân ta giành nhiều trận thắng lớn, quân địch phải cố thủ trong thành Đông Quan
– Tháng 10/1426, Vương Thông cùng 5 vạn quân kéo đến Đông Quan và nâng tổng số lên tới 10 vạn quân
– Tháng 11/1426, quân Minh tiến về Cao Bộ. Quân ta từ mọi hướng tấn công vào quân địch
=> – Kết quả:
+ 5 vạn quân địch tử thương
+ Vương Thông chạy về Đông Quan
– Tháng 10/1427, 15 vạn viện binh của quân Minh từ Trung Quốc chia làm 2 đạo kéo vào nước ta. Quân ta tập trung tiêu diệt viện binh của Liễu Thăng trước
– 8/10/1427, Liễu Thăng kéo quân vào nước ta, bị phục kích và giết ở ải Chi Lăng
– Lương Minh lên thay, dẫn quân xuống Xương Giang; bị phục kích ở Cần Trạm, Phố Cát
– Khi nghe tin Liễu Thăng tử trận -> Mộc Thạnh rút quân về nước
-> Kết quả:
+ Liễu Thắng, Lương Minh tử trận, hàng vạn quân địch bị giết
– Vương Thông xin hòa, mở hội thề Đông Quan, rút khỏi nước ta
$\text{tham khảo ạ :}$
Tóm tắt diễn biến khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1427):
– 7/2/1418, Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn và tự xưng là Bình Định Vương
– Những năm đầu thì nghĩa quân gặp nhiều khó khăn và thử thách:
+ Lực lượng còn non yếu
+ Bị quân Minh liên tục tấn công, bao vây
+ Phải 3 lần rút lên núi Chí Linh
+ Thiếu lương thực, thực phẩm trầm trọng
-> Năm 1423, Lê Lợi đề nghị tạm hòa với quân Minh
– Năm 1424, quân Minh trở mặt tấn công
=> Cuộc khởi nghĩa chuyển sang giai đoạn mới
– Theo kế hoạch của Nguyễn Chích, Lê Lợi chấp thuận chuyển nghĩa quân vào Nghệ An
– 12/10/1424, tập kích bất ngờ đồn Đa Căng (Thanh Hóa), sau đó hạ thành Trà Lân
– Trên đà chiến thắng, nghĩa quân tiến đánh quân giặc ở Khả Lưu
-> Phần lớn Nghệ An được giải phóng
– Tháng 8/1425, Trần Nguyên Hãn, Lê Ngân chỉ huy ở Nghệ An nhanh chóng giải phóng Tấn Bình, Thuận Hóa
– Trong vòng 10 tháng (từ tháng 10/1424 -> tháng 8/1425), nghĩa quân giải phóng Thanh Hóa đến đèo Hải Vân
– Tháng 9/1426, Lê Lợi chia làm 3 đạo quân tiến quân ra Bắc
+ Đạo 1: giải phóng Tây Bắc
+ Đạo 2: giải phóng hạ lưu sông Nhị
+ Đạo 3: tiến thẳng ra Đông Quan
-> Kết quả: Quân ta giành nhiều trận thắng lớn, quân địch phải cố thủ trong thành Đông Quan
– Tháng 10/1426, Vương Thông cùng 5 vạn quân kéo đến Đông Quan và nâng tổng số lên tới 10 vạn quân
– Tháng 11/1426, quân Minh tiến về Cao Bộ. Quân ta từ mọi hướng tấn công vào quân địch
=> – Kết quả:
+ 5 vạn quân địch tử thương
+ Vương Thông chạy về Đông Quan
– Tháng 10/1427, 15 vạn viện binh của quân Minh từ Trung Quốc chia làm 2 đạo kéo vào nước ta. Quân ta tập trung tiêu diệt viện binh của Liễu Thăng trước
– 8/10/1427, Liễu Thăng kéo quân vào nước ta, bị phục kích và giết ở ải Chi Lăng
– Lương Minh lên thay, dẫn quân xuống Xương Giang; bị phục kích ở Cần Trạm, Phố Cát
– Khi nghe tin Liễu Thăng tử trận -> Mộc Thạnh rút quân về nước
-> Kết quả:
+ Liễu Thắng, Lương Minh tử trận, hàng vạn quân địch bị giết
– Vương Thông xin hòa, mở hội thề Đông Quan, rút khỏi nước ta
=> Cuộc khỏi nghĩa kết thúc thắng lợi