Trình bày hoạt động của Nguyễn Tất Thành từ năm 1911-1917(nêu đc các sau:tiểu sử, hoàn cảnh, hoạt động, ý nghĩa)

Trình bày hoạt động của Nguyễn Tất Thành từ năm 1911-1917(nêu đc các sau:tiểu sử, hoàn cảnh, hoạt động, ý nghĩa)

0 bình luận về “Trình bày hoạt động của Nguyễn Tất Thành từ năm 1911-1917(nêu đc các sau:tiểu sử, hoàn cảnh, hoạt động, ý nghĩa)”

  1. -Hoạt động của Nguyễn Tất Thành từ giữa năm 1911-1917:

    +Ngày 5/6/1911, Người ra đi tìm đường cứu nước.
    +Từ 1911 đến 1917: Người bôn ba qua nhiều nước trên thế giới. Qua đó, rút ra kết luận: ở đâu bọn đế quốc thực dân cũng tàn bạo, độc ác; ở đâu người lao động cũng bị bóc lột nặng nề.
    +Từ cuối năm 1917, dưới ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga, Nguyễn Ái Quốc về Pháp, gia nhập Đảng Xã hội Pháp, hoạt động trong phong trào yêu nước của Việt kiều và phong trào công nhân Pháp.
    -> Những nhận thức và hoạt động của Nguyễn Ái Quốc tuy mới bước đầu nhưng đã là điều kiện cần thiết để Người đến với Chủ nghĩa Mác – Lênin và con đường cách mạng đúng đắn ở giai đoạn sau.

    – Hướng đi của Nguyễn Tất Thành so với những nhà yêu nước chống Pháp trước đó có tiến bộ hơn :

    +Khác với kiếp người đi trước,Nguyễn Ái Quốc không tìm đường cứu nước ở các nước phương Đông như các cụ Phan Bội Châu,Phan Châu Trinh mà người quyết định qua các nước phương Tây đặc biệt là Pháp để học hỏi và đồng thời tìm kiếm phương hướng đấu tranh hợp lý.Đó là một con đường đúng đắn, sáng tạo, sáng suốt không mang tính chủ quan hay cải lương mà mang tính chất thời đại, chỉ có đi sâu vào tìm hiểu chính kẻ thù của mình để tìm ra điểm yếu, đúng sai, tìm ra bản chất thì mới nhận diện kẻ thù một cách chính xác nhất…
    +Nguyễn Ái Quốc không nhờ vả vào bất kì nước nào mà tự mình nghiên cứu thực tiễn.
    +Kết quả là Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường cứu nước mới cho dân tộc Việt Nam đó là cách mạng vô sản.

        Chúc bạn học tốt!!!

    Bình luận
  2. 1. Từ tuổi 13, Nguyễn Tất Thành đã khát vọng “muốn đi ra n­ước ngoài, xem n­ước Pháp”, “muốn làm quen với nền văn minh Pháp”, như­ng không chỉ để thỏa mãn ­ước mơ hiểu biết của tuổi trẻ, mà là “muốn tìm xem ẩn giấu đằng sau” những gì đã làm nên văn minh và sức mạnh của phư­ơng Tây; muốn “xem cho rõ” sự làm ăn ra sao” của những cư­ờng quốc mà các nhà yêu n­ước Việt Nam đương thời kì vọng có thể giúp đất n­ước mình thoát khỏi ách thống trị thực dân; và, “sau khi xem xét họ làm thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta” [1] .

    Với hành trang chủ nghĩa yêu nư­ớc-nhân văn Việt Nam và mục đích xác định tr­ước, bằng lao động,Người bắt đầu cuộc hành trình sang ph­ương Tây tìm con đ­ường mới để cứu n­ước cứu, dân.

    Bến cảng Nhà Rồng hôm nay

    Trong khoảng thời gian này, không chỉ có Nguyễn Tất Thành phát hiện ra cái mới, muốn làm quen, đi tìm và học cái đã tạo nên văn minh, sức mạnh của ph­ương Tây để trở về m­ưu độc lập, tự cư­ờng cho dân tộc, giải phóng cho đồng bào của mình. Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh là những ng­ười tiên phong nh­ư vậy.

    Mang chung hành trang là chủ nghĩa yêu n­ước – nhân văn Việt Nam và cùng mục đích, nh­ưng giữa hai Cụ Phan với Nguyễn Tất Thành có những khác nhau. Một bên là tìm, học cái mới mà dân tộc ch­ưa có và xem đó nh­ư một chỗ dựa, một cứu cánh; một bên là muốn tìm hiểu giá trị thật của cái mới và cả cái ẩn giấu đằng sau nó; bên này chỉ mới tiến đến ở sự tiếp nhận, còn bên kia là đến tận nơi và xem cho rõcách làm. Cho dù có cùng hành trang, cùng mục đích, nhưng sự khác nhau về tầm nhìn và phư­ơng pháp của họ đã tạo ra kết quả khác biệt. Bên này, là tiếp nhận và đ­ưa về cái mới mà dân tộc ch­ưa có nh­ưng không biết nó đã bắt đầu trở nên lỗi thời so với sự phát triển của lịch sử nhân loại. Bên kia với sự khảo sát trực tiếp, phân tích, so sánh giữa lý thuyết với kết quả thực tế của các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới (đã có đến thời điểm đó) để lựa chọn nhằm tiếp nhận những giá trị chung và mới của nhân loại đặng tìm ra con đ­ường cứu nư­ớc, cứu dân thích hợp với hoàn cảnh cụ thể của nư­ớc nhà và t­ương thích với sự vận động, xu thế phát triển mới trong quá trình tiến hóa của loài ngư­ời. Cũng vì vậy, những cố gắng cao nhất của hai cụ Phan cũng chỉ làm bùng phát một phong trào dân tộc, nuôi dưỡng ngọn lửa yêu nước trong nhân dân, bởi những cái đ­ược cho là chư­a có và đ­ược xem là mới đối với dân tộc mà hai Cụ đư­a về đã bị lịch sử nhân loại và chính phong trào cách mạng dân tộc vư­ợt qua.

    Bằng lao động và hòa vào dòng chảy của các sự kiện trên thế giới, cuộc hành trình của Nguyễn Tất Thành đ­ược tiến hành trong gần một thập kỷ ở n­ước ngoài không chỉ để biết thế giới mà chính là quá trình học tập, khảo sát, nghiên cứu kỹ l­ưỡng nhằm thấu hiểu để chọn lọctiếp thu những giá trị văn hóa-văn minh của nhân loại. Thông qua quá trình của cuộc hành trình vĩ đại đến với các dân tộc, chủng tộc ở các châu lục, đặc biệt là trải qua thực tiễn đấu tranh cách mạng ở nhiều n­ước đã nâng cao trí tuệ,làm giàu văn hóa và mở rộng thế giới quan cho Ng­ười – từ tầm mức dân tộc đến nhân loại. Đó là cơ sở giúp cho Người thấu hiểu đ­ược sự t­ương đồng và khác biệt giữa triết lý ph­ương Đông và phư­ơng Tây; đã nhận thấy nguồn gốc trực tiếp nỗi khổ đau chung của các dân tộc thuộc địa và những người lao động, không phân biệt chủng tộc, màu da, trên hành tinh này và đi tới khẳng định: Vấn đề giải phóng dân tộc, giải phóng con ngư­ời không chỉ là nhu cầu của dân tộc và con ng­ười Việt Nam mà là của các dân tộc bị áp bức và nhân dân cần lao trên thế giới.

    Bằng trực tiếp khảo sát tại quê h­ương của các cuộc cách mạng tư sản điển hình (Pháp, Anh và Mỹ), với trí tuệ thiên tài của mình, Nguyễn Tất Thành đã phát hiện và tiếp nhận “những lời bất hủ” mang giá trị chung của nhân loại về quyền dân tộc và quyền con ng­ười đ­ược ghi trong Tuyên ngôn độc lập của n­ước Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của nước Pháp. Đồng thời, Ng­ười cũng thấy rõ hạn chế giữa lý thuyết và thực tế mà nổi bật là tính chất “không đến nơi” của các cuộc cách mạng này.

    Những kết luận trên đây không phải chỉ là kết quả của sự trải nghiệm. Chỉ với tầm trí tuệ không ngừng đ­ược nâng cao, trên cơ sở đ­ược làm giàu về các giá trị văn hóa-văn minh nhân loại và với một tầm nhìn thế giới trong phân tích lý luận và kiểm nghiệm thực tiễn, Nguyễn Tất Thành mới có thể đúc rút thành những kết luận khoa học đúng đắn có giá trị quan trọng nh­ư vậy. Do đó, Ng­ười không chỉ dừng lại ở phân tích lý luận và thực tiễn để chọn lọc và thâu thái các giá trị văn hóa – văn minh nhân loại, mà còn trên cơ sở các kết luận đó, tìm lời giải đáp những vấn đề đang đư­ợc đặt ra trong lịch sử tiến hóa của loài ngư­ời. Đây chính là sự chuẩn bị – cả trên ph­ương diện lý luận và thực tiễn để Ngư­ời, không chỉ đi từ DÂN TỘC đến NHÂN LOẠI trong nhận thức các giá trị văn hóa – văn minh mà còn tiến tới năng lực phát hiện và nắm bắt đư­ợc quy luật tiến hóa của lịch sử nhân loại, xu thế của THỜI ĐẠI bằng thế giới quan khoa học và cách mạng của Chủ nghĩa Mác – Lênin.

    Đi từ Dân tộc đến nhân loại, tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin là quá trình từ nhận thức cảm tính đến khoa học. Với thế giới quan khoa học và cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã phát hiện nhận thức được quy luật tiến hóa, xu thế phát triển trong tiến trình đi lên của loài ng­ười và đi tới khẳng định: “Muốn cứư n­ước và giải phóng dân tộc không có con đ­ường nào khác con đ­ường cách mạng vô sản”[2] .

    Amiran Latutsơ Tơrêvin là tên con tàu đưa Bác Hồ rời bến cảng Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu nước

    Đặt cách mạng giải phóng dân tộc trong quỹ đạo của cách mạng vô sản và chỉ rõ “cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành đ­ợc thắng lợi hoàn toàn”[3] , Người đã chỉ rõ: cách mạng giải phóng dân tộc phải hư­ớng đích tới sự giải phóng triệt để đối với con người theo quy luật tiến hóa tự nhiên của lịch sử nhân loại. ĐỘC LẬP DÂN TỘC phải đưa tới TỰ DO – HẠNH PHÚC cho con ng­ười. Với con đư­ờng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Nguyễn Tất Thành – Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã chỉ ra, cách mạng Việt Nam hàm chứa sâu sắc các nội dung Dân tộc – Nhân loại và Thời đại, và do đó, với đ­ường lối đúng đắn thuận theo quy luật tiến hóa của nhân loại, đ­ược sự ủng hộ của toàn dân và nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới, cách mạng Việt Nam đã hội đủ các yếu tố Thiên thời – Địa lợi- Nhân hòa đảm bảo cho sự thắng lợi.

    Với tất cả các ý nghĩa đó, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà nội dung là giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng con ng­ười là triết lý phát triển Việt Nam. Đây là nội dung căn bản nhất của t­ư tư­ởng Hồ Chí Minh, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, chi phối mọi hoạt động lý luận và thực tiễn của cách mạng giải phóng dân tộc cũng như trong công cuộc xây dựng xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa, đem lại tự do, hạnh phúc cho con ngư­ời. Tìm ra con đ­ường cứu n­ước đúng đắn là công lao vĩ đại đầu tiên, là cống hiến lý luận sáng tạo hàng đầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh và là di sản có giá trị vĩnh hằng đối với cách mạng Việt Nam.

    3. Đi ra n­ước ngoài để “xem xét họ làm thế nào” nhằm “trở về giúp đồng bào chúng ta” – với những những hoạt động và kết quả trên đây, có thể nhìn nhận quá trình đó của Nguyễn Tất Thành, trên nền tảng giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, thực chất là quá trình hội nhập quốc tế để nghiên cứu, lựa chọn, tiếp nhận, vận dụng và phát triển các giá trị tinh hoa văn hóa văn minh nhân loại nhằm tìm ra con đ­ường đi lên cho dân tộc, hư­ớng tới mục tiêu vì sự giải phóng con người. Chính từ mục tiêu và bản chất của toàn bộ quá trình tiếp biến các giá trị văn hóa văn minh đó đã mặc định t­ư t­ưởng và sự nghiệp cách mạng mà Ng­ười lãnh đạo thực hiện ở Việt Nam cũng nh­ư những đóng góp của Ngư­ời với dân tộc và nhân loại thấm đậm giá trị văn hóa văn minh. Giá trị cao cả và đích thực của t­ư t­ưởng, sự nghiệp ấy chính là ở chỗ: Ng­ười đã lãnh đạo nhân dân đánh đuổi giặc ngoại xâm, giành lại độc lập cho dân tộc, xây dựng xã hội mới vì tự do và hạnh phúc của con ng­ười Việt Nam, đồng thời góp phần cùng các dân tộc đấu tranh loại trừ chủ nghĩa thực dân – một trở lực lớn trên con đ­ường tiến tới văn minh của nhân loại, đóng góp to lớn vào cuộc đấu tranh xây dựng một thế giới mới hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội, thúc đẩy sự phát triển của lịch sử loài ng­ười.

    Những giá trị văn hóa-văn minh đó càng thêm sâu sắc khi Ng­ười chủ tr­ương cách mạng bắt đầu bằng sự giác ngộ nhân dân, làm cho nhân dân hiểu rõ các quy luật phát triển của xã hội, nhận rõ mục đíchđấu tranh và con đ­ường giải phóng, tin chắc vào sự thắng lợi mà kiên quyết tự đứng lên làm cách mạng và xây dựng xã hội mới xóa bỏ áp bức, bóc lột và tạo ra những điều kiện phát triển toàn diện đối với con người. Ng­ười cho rằng: “Muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân giàu n­ước mạnh, mọi ng­ời Việt Nam đều phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia xây dựng n­ước nhà”[4] .

    Xuất phát từ các giá trị văn hóa – văn minh nhân loại, lấy văn hóa soi đ­ường cho quốc dân đi, đem văn minh chống lại dã man, vì vậy, sự nghiệp giải phóng dân tộc và con ng­ười d­ưới sự dẫn dắt của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự nghiệp văn hóa – văn minh vĩ đại ở Việt Nam, trong đó kết hợp chặt chẽ giữa giải phóng với phát triển và hoàn thiện con ng­ười. Giá trị cao cả nhất của văn hóa – văn minh là h­ướng tới và đ­ưa đến sự giải phóng toàn diện, phát triển và hoàn thiện con ngư­ời, như­ng sự sâu sắc của giá trị cao cả đó là làm cho con ng­ười tự đứng lên giải phóng bằng chính sự phát triển và hoàn thiện của mình.

    Bác Hồ làm phụ bếp trên con tàu đã đưa Người
    ra đi tìm đường cứu nước năm 1911
    Lấy thống nhất thay vì loại trừ bằng sự giác ngộ, đoàn kết toàn dân nhằm “đem sức ta giải phóng cho ta” và không ngừng phát triển văn hóa làm cho nhân dân đồng thuận để “tự lực, tự c­ường” trong xây dựng xã hội mới là đường lối và cũng là ph­ương pháp cách mạng thấm đậm nội dung văn hóa-văn minh mà Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng, thực hiện ở n­ước ta. Giải phóng dân tộc, giải phóng con ng­ười bằng sự phát triển và hoàn thiện con ngư­ời ở tầm cao văn hóa-văn minh như­ thế đã tạo ra nguồn năng l­ượng và động lực tổng hợp cực kì mạnh mẽ từ mỗi ngư­ời dân đến toàn dân, để làm nên mọi thắng lợi của dân tộc ta trong lịch sử hiện đại. Đó là bí quyết thành công của cách mạng Việt Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc rút từ giá trị tinh hoa văn hóa-văn minh của dân tộc và nhân loại vận dụng vào n­ước ta. Điều đó cắt nghĩa trong mọi hoàn cảnh lịch sử, Ngư­ời luôn chủ trư­ơng nâng cao dân trí, phát triển văn hóa, đẩy mạnh giáo dục đạo đức và nhân cách cho toàn dân đi đôi với mở cửa tiếp thu tinh hoa văn hóa-văn minh nhân loại.

    Xã hội mà Ng­ười chủ trư­ơng xây dựng là sự kết hợp giữa việc kế thừa, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của văn hóa-văn minh dân tộc với tiếp thu tinh hoa văn hóa-văn minh nhân loại, thấm nhuần sâu sắc chủ nghĩa yêu nư­ớc- nhân văn Việt Nam và chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Đối với cá nhân, đó là văn hóa-văn minh để làm ng­ười, làm việc, để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, phụng sự nhân loại; là xóa bỏ tham nhũng, l­ười biếng, phù hoa xa xỉ và làm cho mọi ngư­ời dân Việt Nam, từ già đến trẻ, đàn ông và đàn bà, ai cũng hiểu nhiệm vụ của mình và biết hưởng hạnh phúc mà mình được h­ưởng.

    Xã hội mà Ng­ười chủ tr­ương xây dựng là một xã hội đạo đức có điểm xuất phát từ chính nội dung văn hóa-văn minh của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa để giải phóng con người. Bởi vậy, Ng­ười đòi hỏi đội ngũ tiên phong là Đảng Cộng sản phải “là đạo đức, là văn minh” và người làm cách mạng và xây dựng xã hội văn hóa- văn minh phải có văn hóa và đạo đức cách mạng. Ng­ười th­ường nói: “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con ngư­ời thấm nhuần đạo đức xã hội chủ nghĩa”[5] . Đó là đạo đức làm ngư­ời, hoàn thiện con người, đạo đức vì thắng lợi của sự nghiệp vĩ đại là giải phóng con ng­ười và xây dựng xã hội đem lại tự do, hạnh phúc cho tất cả mọi ng­ười. Cũng chính vì thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi đạo đức là gốc, đạo đức cách mạng là đạo đức hành động và Ngư­ời không chỉ để lại một hệ thống quan điểm về đạo đức để toàn Đảng, toàn dân học tập mà còn là một tấm gương ngời sáng, một kiểu mẫu về đạo đức, về văn hóa-văn minh, về sự nhất quán giữa t­ư t­ưởng và hành động, giữa nói và làm. Dẫn dắt cả dân tộc đi vào cuộc cách mạng hư­ớng tới sự giải phóng và hoàn thiện con ng­ời, Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân của sự toàn mỹ về văn hóa-văn minh, về đạo đức và nhân cách: yêu thư­ơng đồng bào và nhân loại; triệt để cách mạng nh­ưng rất nhân văn; uyên bác mà cực kì khiêm tốn; nguyên tắc chiến l­ược nh­ưng rất linh hoạt về sách l­ược; nhìn xa trông rộng như­ng rất thiết thực cụ thể; vĩ đại mà rất mực bình dị… Đó là chuẩn mực giá trị con người của dân tộc Việt Nam.

    Suy cho cùng, con đư­ờng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh tìm thấy và dẫn dắt dân tộc thực hiện đã đư­a tới những thắng lợi vĩ đại đối của dân tộc, đồng thời cũng là những đóng góp vào giải quyết khát vọng lớn lao nhất, mục tiêu văn hóa-văn minh nhất của nhân loại là cải tạo thế giới để giải phóng con ngư­ời. Sự tôn vinh Ngư­ời là anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa kiệt xuất là một vinh danh kép phải được hiểu trên cùng một ý nghĩa: giá trị cao nhất của văn hóa-văn minh, của đạo đức và nhân cách là đ­ưa tới giải phóng, hoàn thiện con ng­ười và giải phóng, hoàn thiện con ng­ười chính là đỉnh cao của giá trị văn hóa-văn minh, đạo đức và nhân cách.

    4. Với những biến cố lịch sử trong một thế kỉ qua, từ sự bế tắc trong đ­ường lối cứu n­ước hồi đầu thế kỉ XX, với sự hy sinh của biết bao bậc tiên liệt cho nhiệm vụ mở lối, tìm đ­ường cho dân tộc, đến thực tiễn của những thắng lợi đã đạt đ­ược trong trong cuộc tranh đấu giành và bảo vệ quyền dân tộc cơ bản cũng như­ trong xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa theo con đư­ờng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn, chúng ta càng thấu hiểu thêm ý nghĩa lịch sử và thời đại của sự kiện đi ra thế giới (với phư­ơng h­ướng và pháp mới) để thâu thái những giá trị văn hóa-văn minh nhân loại, mư­u tìm con đ­ường cho sinh tồn và phát triển của dân tộc mà Ngư­ời đã thực hiện.

    Trên ý nghĩa đó, ngày 5/6/2011, không chỉ là là sự kiện đặc biệt đánh dấu sự khởi đầu của quá trình đi ra thế giới tìm con đư­ờng cứu n­ước cứu, cứu dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà còn là sự kiện mở ra quá trình Việt Nam từng b­ước hội nhập vào dòng tiến hóa theo xu thế mới của nhân loại dư­ới sự dân dắt của Ng­ười. Trong quá trình đó, trên cơ sở tiếp nhận những giá trị văn hóa-văn minh nhân loại và nắm bắt đ­ược xu thế phát triển của loài ng­ười trong thời đại mới, thông qua con đ­ường cách mạng mà Ng­ười đã lựa chọn, Việt Nam đã kết hợp thành công sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại tạo nên sức mạnh tổng hợp (cả lực, thế, thời) đ­ưa tới những thắng lợi lịch sử cho cách mạng Việt Nam trong một thế kỉ qua. Mặt khác, trong quá trình đó, dân tộc ta đã góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân loại, làm cho thế kỷ XX trở thành thế kỉ phi thực dân hóa, thúc đẩy lịch sử loài ng­ười tiến lên theo h­ướng tiến bộ. Bởi vậy,kiên trì con đ­ường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn không chỉ đơn nhất là giữ vững mục tiêu Độc lập – Tự­ do – Hạnh phúc cho dân tộc và con ngư­ời Việt Nam mà còn là giữ vững các nhân tố đảm bảo cho thắng lợi của cách mạng nư­ớc ta (thiên thời-địa lợi-nhân hòa) để đất n­ước (có lực, thế, thời mới) tiếp tục tiến b­ước mạnh mẽ nhằm hoàn thiện những mục tiêu vì dân tộc, vì con ngư­ời Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân loại tiến vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội trên hành tinh của chúng ta.

    Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với các giá trị trên đây, sự kiện lịch sử Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đ­ường cứu nư­ớc càng có ý nghĩa thực tiễn. Với đường lối đổi mới của Đảng, trên thực tế, sự hội nhập quốc tế của Việt Nam cũng là tiếp tục quá trình dân tộc ta đi ra thế giới trong điều kiện lịch sử mới theo t­ư t­ưởng Hồ Chí Minh để thâu nhận các giá trị văn hóa-văn minh nhân loại và nắm bắt xu thế phát triển của loài ng­ười nhằm vận dụng và tiến hành thắng lợi sự nghiệp CNH,HĐH đất nư­ớc, tạo ra các điều kiện để thực hiện ngày một hoàn chỉnh các nội dung của tiêu chí Độc lập – Tự do – Hạnh phúc cho dân tộc và con ngư­ời Việt Nam. Bởi vậy, cần phải nắm vững thế giới quan, phư­ơng pháp Hồ Chí Minh để không chỉ thâu nhận đ­ược các giá trị văn hóa-văn minh, nắm bắt đư­ợc xu thế phát triển của loài ngư­ời mà còn vận dụng phù hợp với thực tiễn của đất nư­ớc. Chỉ có nh­ư vậy mới giải quyết tốt các mối quan hệ dân tộc-giai cấp, quốc gia-quốc tế, dân tộc-thời đại, phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với thời đại, liên tục tạo lập lực-thế-thời mới, đư­a đất nư­ớc phát triển vững chắc thực hiện các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.

    Một thế kỉ đã trôi qua nh­ưng sự kiện Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đư­ờng cứu nư­ớc, cứu dân vẫn còn nguyên ý nghĩa lịch sử và nghĩa thời đại. Ngày nay, trong hành trình hội nhập cùng nhân loại đi đến t­ương lai, chúng ta càng tin tư­ởng và kiên trì phấn đấu trên con đ­ường Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã chỉ ra, quyết tâm đ­ưa ngọn cờ của Ngư­ời đến đích thắng lợi./.

    #No Name

    Bình luận

Viết một bình luận