Trình bày suy nghĩ của em qua bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy
0 bình luận về “Trình bày suy nghĩ của em qua bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy”
Nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã nhận định về đặc điểm cũng như định hướng nghệ thuật của thơ Nguyễn Duy bằng những lời rất sâu sắc: “Thơ Nguyễn Duy đưa ta về một thế giới quen thuộc. Nguyễn Duy đặc biệt thấm thía cái cao đẹp của những con người, những cuộc đời cần cù gian khổ, không tuổi không tên. Đọc thơ Nguyễn Duy thấy anh hay cảm xúc, suy nghĩ trước những chuyện lớn, chuyện nhỏ quanh mình. Cái điều ở người khác thì có thể chỉ là chuyện thoáng qua thì ở anh, nó lắng sâu và dường như đọng lại…”. Đọc thơ Nguyễn Duy ta thường cảm nhận thấy ở ông là một giọng thơ phóng khoáng, ngang tàng nhưng ẩn chứa trong ấy lại là cả một thế giới nội tâm sâu sắc, giàu sức suy tưởng, triết lý về kiếp nhân sinh, về những giá trị thiết thực ở đời, đặc biệt là trong khía cạnh tình cảm mà con người thường có lúc bẵng quên đi. Chính bởi giọng thơ thoải mái, vừa hiện đại vừa truyền thống, dẫn người đọc đi từ quá khứ đến hiện tại bằng nhịp thơ nhẹ nhàng, thong thả, nên thơ Nguyễn Duy dễ đi vào lòng người, ngấm sâu tận tâm hồn, để rồi có đôi lúc khiến người đọc phải bừng tỉnh, giật mình ngẫm lại xem bản thân có phải hình như đã bỏ lỡ một điều gì đó quan trọng hay không. Bên cạnh những tác phẩm rất được yêu thích của nhà thơ như Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, Đò lèn, Tre Việt Nam, Sông Thao,… thì Ánh trăng cũng là một bài thơ xuất sắc tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Nguyễn Duy, phóng khoáng nhưng đầy chiêm nghiệm.
Nguyễn Duy là một người lính chiến từng có khoảng thời gian hơn 10 năm tham gia vào cuộc kháng chiến chống Mỹ trên các chiến trường ác liệt nhất tại miền Nam, đồng thời ông cũng có mặt trong cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979. Cuộc đời chiến sĩ đã để lại trong Nguyễn Duy những ấn tượng, những trải nghiệm khó quên về hình tượng người lính, đặc biệt là những hiểu biết về tâm hồn của người lính thông qua chính bản thân mình. Sau giải phóng miền Nam, đất nước hoàn toàn độc lập, Nguyễn Duy rời chiến trường trở về thành phố Hồ Chí Minh sinh sống và tiếp tục công việc sáng tác. Năm 1978, ba năm sau ngày giải phóng, có lẽ rằng cuộc sống yên bình đã làm người lính vô tình lãng quên những kỷ niệm đầy gian khó, nhưng anh hùng của quá khứ. Chỉ khi có ánh trăng soi tỏ tấm lòng, người lính mới giật mình nhớ lại về một thời quá khứ đã xa không ánh điện, cửa gương chỉ có rừng hoang sương muối và ánh trăng làm tri kỷ, Ánh trăng đã ra đời trong những giây phút xúc động như vậy.
“Hồi nhỏ sống với đồng với sông rồi với biển hồi chiến tranh ở rừng vầng trăng thành tri kỷ
Trần trụi với thiên nhiên hồn nhiên như cây cỏ ngỡ không bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa”
Nguyễn Duy quay trở về một thời thơ ấu thật xa, ông ra đi từ một làng quê nghèo của tỉnh Thanh Hóa với cái nắng bỏng rát của mùa hè, cái lạnh cắt từng thớ thịt của mùa đông. Nhà thơ Rasun Gamzatop đã từng nói: “Chúng ta không thể lựa chọn Quê hương, nhưng Quê hương thì ngay từ đầu đã lựa chọn chúng ta!” và có thể thấy rằng Nguyễn Duy đã rất thành tâm với sự lựa chọn đó của quê hương như là một định mệnh. Trong rất nhiều tác phẩm, nhà thơ vẫn thường nhắc về chốn làng quê của mình một cách đầy yêu thương và trân trọng, trong Ánh trăng cũng không hề ngoại lệ, Nguyễn Duy hồi tưởng về một thời thơ ấu, bé dại cuộc sống gắn liền với những cánh đồng xanh ngắt, với những con sông với những bờ biển đầy muối, đó là những thời khắc vô cùng đáng giá của một con người. Rồi đến khi lớn lên, rời xa quê hương đi chiến đấu dọc các chiến trường ác liệt nhất của miền Nam, đường 9 – Khe Sanh đến mặt trận Nam Lào, cuộc sống của người lính có lẽ gắn bó nhất là với hình ảnh những cánh rừng bát ngát rậm rạp, với những đêm dài thức trắng chờ giặc. Khi đó cuộc sống đầy máu và lửa, chất chứa nhiều gian khổ, thì hình ảnh vầng trăng trên cao, tròn vành vạnh, sáng trong là biểu tượng cho sự sum họp, hạnh phúc, biểu tượng cho sự hòa bình, yên ấm sớm đã trở thành tri kỷ theo mỗi bước chân của người lính. Nguyễn Duy cũng như vậy, trăng đã trở thành một phần trong đời sống chiến đấu, trong đời thơ dài của tác giả, thậm chí thân thiết quen thuộc đến mức tưởng rằng ông sẽ chẳng bao giờ quên được cái vầng trăng đẹp đẽ, “cái vầng trăng tình nghĩa”, thủy chung, son sắt đã làm bạn với nhà thơ trong hơn chục năm trời chiến đấu đầy gian khổ. Thế nhưng có vẻ nhà thơ đã đánh giá quá thấp sức ảnh hưởng của ngoại cảnh, sự thay đổi môi trường mới trong một thời gian dài dường như cũng làm thay đổi suy nghĩ của con người ít nhiều.
“Từ hồi về thành phố quen ánh điện cửa gương vầng trăng đi qua ngõ như người dưng qua đường
Thình lình đèn điện tắt phòng buyn-đinh tối om vội bật tung cửa sổ đột ngột vầng trăng tròn”
Những ngày chinh chiến gian khổ cuối cùng cũng đã lùi xa, người lính chiến rời bỏ chiến trường ác liệt, đầy mưa bom bão đạn để trở về với cuộc sống yên bình mà ông cũng như biết bao người lính khác đã mong ước và đã chiến đấu hết mình vì nó suốt mấy chục năm qua. Thời thế thay đổi, cuộc sống trở nên thảnh thơi hơn, Nguyễn Duy được sống trong những căn phòng bê tông cốt thép, với nước sơn đẹp đẽ, cửa gương sáng loáng, với ánh điện sáng trưng, khác hẳn những ngày chiến đấu gian khổ màn trời chiếu đất, tối tăm đôi lúc được hứng vài ánh trăng nhàn nhạt khi còn chiến đấu. Có một sự thật rằng khi bình yên người ta thường dễ dàng quên đi những thời thề son sắt trong gió bão, không phải chỉ riêng mình tác giả, mà có lẽ đó đã là xu hướng chung của loài người, bởi ít khi nào họ muốn mường tượng lại những ngày tháng gian khổ, thiếu thốn họ chỉ muốn tiến về phía trước, nên lời thề theo đó mà dễ dàng bị quên đi. Nói tệ hại hơn một chút thì người ta gọi đó là lòng người “vô tình”, chỉ có điều có phải nhà thơ cố tình quên đi hay là do sự chảy trôi của thời gian của cuộc sống xô bồ dễ khiến tác giả nhiều lúc chẳng còn để ý lên trời cao. Và may mắn sao, Nguyễn Duy thuộc vế thứ hai, một sự cố “Thình lình đèn điện tắt” đã bất ngờ đánh thức tác giả, giữa cái tối tăm của căn phòng kín đáo, ngột ngạt, tác giả buộc phải tìm cho mình một ánh sáng, một bầu không khí khác. Khi cửa sổ bật tung, Nguyễn Duy thực sự sửng sốt nên đã dùng từ “đột ngột” để diễn tả sự xuất hiện của vầng trăng, đôi lúc ta cảm thấy ánh trăng dường như ập đến khiến nhà thơ trở mình không kịp, mà chỉ còn cách đứng sững đón nhận tất cả. Ánh trăng mang về nhiều lắm, đâu chỉ riêng cái ánh sáng vàng nhàn nhạt, mà đó còn là một bầu trời ký ức trong những năm kháng chiến gian khổ, ánh trăng với tuổi thơ nông nổi, dại khờ,… và quan trọng nhất là mang về lời thề tình nghĩa nguyện cùng trăng làm tri kỷ đã lãng quên suốt mấy năm nay. Nguyễn Duy đã cảm thấy thế nào trong cái giây phút đột ngột ấy, có lẽ là xúc động, có lẽ là xấu hổ và cũng có thể là cả sự hoài niệm tha thiết về những ngày xưa thân ái.
“Ngửa mặt lên nhìn mặt có cái gì rưng rưng như là đồng là bể như là sông là rừng
Trăng cứ tròn vành vạnh kể chi người vô tình ánh trăng im phăng phắc đủ cho ta giật mình”
Đối mặt với vầng trăng trước sau như một, vẫn ân tình, thủy chung son sắt nhà thơ trở nên bối rối, niềm xúc động tuôn trào như cảnh hội ngộ cố nhân, người đã lâu không gặp mặt, ký ức thuở ấu thơ tràn về “Như là đồng là bể/Như là sống là rừng”. Thế nhưng đứng trước sự lạnh lùng, trong sáng của vầng trăng “cứ tròn vành vạnh” như thuở còn gian khổ, còn chiến tranh ở rừng, đã nhắc nhở tác giả về sự “vô tình”, bạc bẽo, có mới nới cũ. Vầng trăng ấy không nói gì, không kể lể không trách tội, trăng quân tử, “trăng im phăng phắc” nhưng lại chính là sự dằn vặt, sự chỉ trích nghiêm khắc nhất đối với người dưới ánh trăng. Hình ảnh vầng trăng sáng tỏ, trên nền trời đối mặt với người thi sĩ trong căn phòng thiếu ánh điện, cửa gương bật mở, như nhắc nhở cuối cùng chỉ còn có vầng trăng mãi vẫn luôn ngự trị, vẫn luôn ân tình, thủy chung theo sát bóng người lính chiến dẫu là khi chiến tranh hay khi đã hòa bình độc lập. Nhiêu đó thôi cũng để người ta phải “giật mình”, không phải vì sợ hãi mà giật mình, đó là sự xấu hổ, bối rối, bất ngờ và xúc động đã đánh thức tâm hồn tác giả, buộc Nguyễn Duy phải nhìn nhận lại bản thân trong cách sống, cách suy nghĩ. Rõ ràng rằng hình ảnh người lính và vầng trăng hòa bình đã dẫn ra một triết lý vô cùng sâu sắc, nhắc nhở con người về lối sống ân tình, vẹn nghĩa với quá khứ, dẫu có vô tình bẵng quên đi nhưng chỉ cần đến một lúc nào đó có thể chợt nhận ra mà không hoàn toàn chối bỏ thì đều là đáng quý, đáng trân trọng.
Bằng giọng thơ phóng khoáng tự nhiên, lối thơ tự sự giản dị Nguyễn Duy đã đưa người đọc về những năm tháng chiến đấu đầy vất vả của người lính, cũng như đời sống nội tâm thông qua hình ảnh vầng trăng gắn bó tri kỷ. Đồng thời cũng để lại cho mỗi người một bài học, một lời nhắc nhở về cách sống, cách đối xử với quá khứ, những gì tuy đã đi qua nhưng lại có ý nghĩa vô cùng quan trọng, mỗi chúng ta cần phải biết trân quý, giữ gìn bằng tấm lòng ân nghĩa, thủy chung.
Nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã nhận định về đặc điểm cũng như định hướng nghệ thuật của thơ Nguyễn Duy bằng những lời rất sâu sắc: “Thơ Nguyễn Duy đưa ta về một thế giới quen thuộc. Nguyễn Duy đặc biệt thấm thía cái cao đẹp của những con người, những cuộc đời cần cù gian khổ, không tuổi không tên. Đọc thơ Nguyễn Duy thấy anh hay cảm xúc, suy nghĩ trước những chuyện lớn, chuyện nhỏ quanh mình. Cái điều ở người khác thì có thể chỉ là chuyện thoáng qua thì ở anh, nó lắng sâu và dường như đọng lại…”. Đọc thơ Nguyễn Duy ta thường cảm nhận thấy ở ông là một giọng thơ phóng khoáng, ngang tàng nhưng ẩn chứa trong ấy lại là cả một thế giới nội tâm sâu sắc, giàu sức suy tưởng, triết lý về kiếp nhân sinh, về những giá trị thiết thực ở đời, đặc biệt là trong khía cạnh tình cảm mà con người thường có lúc bẵng quên đi. Chính bởi giọng thơ thoải mái, vừa hiện đại vừa truyền thống, dẫn người đọc đi từ quá khứ đến hiện tại bằng nhịp thơ nhẹ nhàng, thong thả, nên thơ Nguyễn Duy dễ đi vào lòng người, ngấm sâu tận tâm hồn, để rồi có đôi lúc khiến người đọc phải bừng tỉnh, giật mình ngẫm lại xem bản thân có phải hình như đã bỏ lỡ một điều gì đó quan trọng hay không. Bên cạnh những tác phẩm rất được yêu thích của nhà thơ như Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, Đò lèn, Tre Việt Nam, Sông Thao,… thì Ánh trăng cũng là một bài thơ xuất sắc tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Nguyễn Duy, phóng khoáng nhưng đầy chiêm nghiệm.
Nguyễn Duy là một người lính chiến từng có khoảng thời gian hơn 10 năm tham gia vào cuộc kháng chiến chống Mỹ trên các chiến trường ác liệt nhất tại miền Nam, đồng thời ông cũng có mặt trong cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979. Cuộc đời chiến sĩ đã để lại trong Nguyễn Duy những ấn tượng, những trải nghiệm khó quên về hình tượng người lính, đặc biệt là những hiểu biết về tâm hồn của người lính thông qua chính bản thân mình. Sau giải phóng miền Nam, đất nước hoàn toàn độc lập, Nguyễn Duy rời chiến trường trở về thành phố Hồ Chí Minh sinh sống và tiếp tục công việc sáng tác. Năm 1978, ba năm sau ngày giải phóng, có lẽ rằng cuộc sống yên bình đã làm người lính vô tình lãng quên những kỷ niệm đầy gian khó, nhưng anh hùng của quá khứ. Chỉ khi có ánh trăng soi tỏ tấm lòng, người lính mới giật mình nhớ lại về một thời quá khứ đã xa không ánh điện, cửa gương chỉ có rừng hoang sương muối và ánh trăng làm tri kỷ, Ánh trăng đã ra đời trong những giây phút xúc động như vậy.
“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với biển
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỷ
Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”
Nguyễn Duy quay trở về một thời thơ ấu thật xa, ông ra đi từ một làng quê nghèo của tỉnh Thanh Hóa với cái nắng bỏng rát của mùa hè, cái lạnh cắt từng thớ thịt của mùa đông. Nhà thơ Rasun Gamzatop đã từng nói: “Chúng ta không thể lựa chọn Quê hương, nhưng Quê hương thì ngay từ đầu đã lựa chọn chúng ta!” và có thể thấy rằng Nguyễn Duy đã rất thành tâm với sự lựa chọn đó của quê hương như là một định mệnh. Trong rất nhiều tác phẩm, nhà thơ vẫn thường nhắc về chốn làng quê của mình một cách đầy yêu thương và trân trọng, trong Ánh trăng cũng không hề ngoại lệ, Nguyễn Duy hồi tưởng về một thời thơ ấu, bé dại cuộc sống gắn liền với những cánh đồng xanh ngắt, với những con sông với những bờ biển đầy muối, đó là những thời khắc vô cùng đáng giá của một con người. Rồi đến khi lớn lên, rời xa quê hương đi chiến đấu dọc các chiến trường ác liệt nhất của miền Nam, đường 9 – Khe Sanh đến mặt trận Nam Lào, cuộc sống của người lính có lẽ gắn bó nhất là với hình ảnh những cánh rừng bát ngát rậm rạp, với những đêm dài thức trắng chờ giặc. Khi đó cuộc sống đầy máu và lửa, chất chứa nhiều gian khổ, thì hình ảnh vầng trăng trên cao, tròn vành vạnh, sáng trong là biểu tượng cho sự sum họp, hạnh phúc, biểu tượng cho sự hòa bình, yên ấm sớm đã trở thành tri kỷ theo mỗi bước chân của người lính. Nguyễn Duy cũng như vậy, trăng đã trở thành một phần trong đời sống chiến đấu, trong đời thơ dài của tác giả, thậm chí thân thiết quen thuộc đến mức tưởng rằng ông sẽ chẳng bao giờ quên được cái vầng trăng đẹp đẽ, “cái vầng trăng tình nghĩa”, thủy chung, son sắt đã làm bạn với nhà thơ trong hơn chục năm trời chiến đấu đầy gian khổ. Thế nhưng có vẻ nhà thơ đã đánh giá quá thấp sức ảnh hưởng của ngoại cảnh, sự thay đổi môi trường mới trong một thời gian dài dường như cũng làm thay đổi suy nghĩ của con người ít nhiều.
“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường
Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”
Những ngày chinh chiến gian khổ cuối cùng cũng đã lùi xa, người lính chiến rời bỏ chiến trường ác liệt, đầy mưa bom bão đạn để trở về với cuộc sống yên bình mà ông cũng như biết bao người lính khác đã mong ước và đã chiến đấu hết mình vì nó suốt mấy chục năm qua. Thời thế thay đổi, cuộc sống trở nên thảnh thơi hơn, Nguyễn Duy được sống trong những căn phòng bê tông cốt thép, với nước sơn đẹp đẽ, cửa gương sáng loáng, với ánh điện sáng trưng, khác hẳn những ngày chiến đấu gian khổ màn trời chiếu đất, tối tăm đôi lúc được hứng vài ánh trăng nhàn nhạt khi còn chiến đấu. Có một sự thật rằng khi bình yên người ta thường dễ dàng quên đi những thời thề son sắt trong gió bão, không phải chỉ riêng mình tác giả, mà có lẽ đó đã là xu hướng chung của loài người, bởi ít khi nào họ muốn mường tượng lại những ngày tháng gian khổ, thiếu thốn họ chỉ muốn tiến về phía trước, nên lời thề theo đó mà dễ dàng bị quên đi. Nói tệ hại hơn một chút thì người ta gọi đó là lòng người “vô tình”, chỉ có điều có phải nhà thơ cố tình quên đi hay là do sự chảy trôi của thời gian của cuộc sống xô bồ dễ khiến tác giả nhiều lúc chẳng còn để ý lên trời cao. Và may mắn sao, Nguyễn Duy thuộc vế thứ hai, một sự cố “Thình lình đèn điện tắt” đã bất ngờ đánh thức tác giả, giữa cái tối tăm của căn phòng kín đáo, ngột ngạt, tác giả buộc phải tìm cho mình một ánh sáng, một bầu không khí khác. Khi cửa sổ bật tung, Nguyễn Duy thực sự sửng sốt nên đã dùng từ “đột ngột” để diễn tả sự xuất hiện của vầng trăng, đôi lúc ta cảm thấy ánh trăng dường như ập đến khiến nhà thơ trở mình không kịp, mà chỉ còn cách đứng sững đón nhận tất cả. Ánh trăng mang về nhiều lắm, đâu chỉ riêng cái ánh sáng vàng nhàn nhạt, mà đó còn là một bầu trời ký ức trong những năm kháng chiến gian khổ, ánh trăng với tuổi thơ nông nổi, dại khờ,… và quan trọng nhất là mang về lời thề tình nghĩa nguyện cùng trăng làm tri kỷ đã lãng quên suốt mấy năm nay. Nguyễn Duy đã cảm thấy thế nào trong cái giây phút đột ngột ấy, có lẽ là xúc động, có lẽ là xấu hổ và cũng có thể là cả sự hoài niệm tha thiết về những ngày xưa thân ái.
“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng
Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Đối mặt với vầng trăng trước sau như một, vẫn ân tình, thủy chung son sắt nhà thơ trở nên bối rối, niềm xúc động tuôn trào như cảnh hội ngộ cố nhân, người đã lâu không gặp mặt, ký ức thuở ấu thơ tràn về “Như là đồng là bể/Như là sống là rừng”. Thế nhưng đứng trước sự lạnh lùng, trong sáng của vầng trăng “cứ tròn vành vạnh” như thuở còn gian khổ, còn chiến tranh ở rừng, đã nhắc nhở tác giả về sự “vô tình”, bạc bẽo, có mới nới cũ. Vầng trăng ấy không nói gì, không kể lể không trách tội, trăng quân tử, “trăng im phăng phắc” nhưng lại chính là sự dằn vặt, sự chỉ trích nghiêm khắc nhất đối với người dưới ánh trăng. Hình ảnh vầng trăng sáng tỏ, trên nền trời đối mặt với người thi sĩ trong căn phòng thiếu ánh điện, cửa gương bật mở, như nhắc nhở cuối cùng chỉ còn có vầng trăng mãi vẫn luôn ngự trị, vẫn luôn ân tình, thủy chung theo sát bóng người lính chiến dẫu là khi chiến tranh hay khi đã hòa bình độc lập. Nhiêu đó thôi cũng để người ta phải “giật mình”, không phải vì sợ hãi mà giật mình, đó là sự xấu hổ, bối rối, bất ngờ và xúc động đã đánh thức tâm hồn tác giả, buộc Nguyễn Duy phải nhìn nhận lại bản thân trong cách sống, cách suy nghĩ. Rõ ràng rằng hình ảnh người lính và vầng trăng hòa bình đã dẫn ra một triết lý vô cùng sâu sắc, nhắc nhở con người về lối sống ân tình, vẹn nghĩa với quá khứ, dẫu có vô tình bẵng quên đi nhưng chỉ cần đến một lúc nào đó có thể chợt nhận ra mà không hoàn toàn chối bỏ thì đều là đáng quý, đáng trân trọng.
Bằng giọng thơ phóng khoáng tự nhiên, lối thơ tự sự giản dị Nguyễn Duy đã đưa người đọc về những năm tháng chiến đấu đầy vất vả của người lính, cũng như đời sống nội tâm thông qua hình ảnh vầng trăng gắn bó tri kỷ. Đồng thời cũng để lại cho mỗi người một bài học, một lời nhắc nhở về cách sống, cách đối xử với quá khứ, những gì tuy đã đi qua nhưng lại có ý nghĩa vô cùng quan trọng, mỗi chúng ta cần phải biết trân quý, giữ gìn bằng tấm lòng ân nghĩa, thủy chung.
chúc bạn học tốt ạ