Trong truyện ngắn Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn đã rất thành công về biện pháp tương phản , đối lập . Em hãy viết đoạn văn cm điều đó trong đoạn văn có sử dụng câu mở rộng và gạch chân dưới câu mở rộng đó
Trong truyện ngắn Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn đã rất thành công về biện pháp tương phản , đối lập . Em hãy viết đoạn văn cm điều đó trong đoạn
By Katherine
Với hai bức tranh đời tương phản, tác giả đã phản ánh rõ nét toàn cảnh xã hội phong kiến thời xưa. Hai hình ảnh trái lập nhau đã làm càng tăng thêm ý nghĩa, lên án, tố cáo những kẻ cầm đầu độc ác, không biết quan tâm đến đời sống nhân dân hay nói đúng hơn là tên quan phủ – một viên quan vô trách nhiệm lòng lang dạ sói trong tác phẩm. Văn bản này vào đề bằng một hình ảnh hết sức căng thẳng, gay cấn, khó khăn. Đó là vào một giờ đêm, trời mưa tầm tã. Nước sông dâng cao đe doạ vỡ đê. Với công cụ thô sơ, những người dân chân lấm tay bùn với hàng nghìn tư thế khác nhau: người vác cuốc, người vác tre, kẻ bì bõm ướt như chuột lột cùng nhau gắng sức chống lại thiên tai, bão lụt. Hình ảnh muôn sầu nghìn thảm ấy làm bất cứ ai được đọc, được nghe đều không khỏi xót thương. Sự vất vả của người dân kéo dài tới mãi đêm khuya vẫn chưa chấm dứt. Tiếng hò, tiếng gọi, í ới, gấp gấp, sự căng thẳng ấy được bộc lộ qua nét mặt của từng người. Trước tình cảnh như vậy thì bất kì ai cũng đặt ra câu hỏi: Vậy trước thế cùng sức kiệt như vậy thì quan phụ mẫu, những người có chức quyền ở đâu. Thì ra những vị quan phụ mẫu đang hộ đê trong đình, một khung cảnh hoàn toàn trái ngược. Bầu không khí ấm áp không chút lo âu. Sự bình thản của mỗi người trên từng quân bài. Quan phụ mẫu đang hộ đê trong tư thế ung dung, nhàn hạ, tay cầm bát yến, ngồi khểnh vuốt râu. Sự oai phong của quan được thể hiện ở lời nói. Những tên xu nịnh vây quanh nịnh hót, quan thắng bài đó là niềm hạnh phúc. Từng khung cảnh cũng được đề cập đến trong văn bản càng bộc lộ rõ nét hơn. Than ôi! Xã hội phong kiến bất công biết bao. Bằng những ngôn từ, biện pháp tự sự, kết hợp với miêu tả, bình luận cùng với những cảm xúc chân thực, tác giả đã đưa người đọc vào trong cuộc sống bấy giờ, tái hiện lại những nghịch cảnh trớ trêu, lay động lòng người, đánh thức lên một nỗi niềm xót cảm. Không mảy may một chút vương lòng, những hình ảnh nhàn hạ, nào quan phủ, nào thầy lí, thầy đề, những tên cương hào, ác bá được lột tả dưới ngòi bút của tác giả. Với những ngôn từ bình dị, cổ xưa, tác giả đã gợi lên một khung cảnh chân thực. Hơn thế nữa, một loạt những nghệ thuật độc đáo được được sử dụng. Khi thời điểm tưởng chừng ngàn cân treo sợi tóc, văng vẳng từ xa tiếng người vào bẩm báo: “Dễ có khi đê vỡ”. Cảnh bình chân như vại của viên quan bằng lời nói: “Mặc kệ” khi đợi bài ù. Không chỉ vậy sự thách thức của hắn còn được bộc lộ bởi câu nói: “Đê có vỡ, nước có dâng lên cao thì cũng không lo đình sập, đình vỡ” Thật là nghịch chướng. Đó là phép tăng cấp rất độc đáo. Hay nghệ thuật tương phản cũng khá ấn tượng. Hai khung cảnh một trời một vực, một bên ung dung nhàn nhã, một bên gấp gáp lo âu. Sự tương phản này là mâu thuẫn quan điểm của hai lớp người trong xã hội xưa.
Số phận người dân lao động từ lâu đã trở thành chủ đề và nguồn cảm hứng cho ca dao và biết bao những tác phẩm văn học Việt Nam. Một trong số đó chúng ta phải kể tới chùm ca dao than thân và truyện ngắn “Sống chết mặc bay” của tác giả Phạm Duy Tốn. Nếu như ca dao than thân thể hiện sự khổ sở của người dân lao động thấp cổ bé họng, đặc biệt là người phụ nữ xưa thì người dân lao động trong “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn rơi vào tình cảnh khốn cùng trong đêm đê vỡ, nhà cửa tan nát, quan phụ mẫu thì bỏ mặc. Trong ca dao than thân, người dân lao động hiện lên với biết bao hình ảnh ẩn dụ. Mô típ mở đầu quen thuộc “Thân em” trong ca dao than thân như một lời dự báo về số phận của người phụ nữ trong xã hội xưa. Khi thì họ hóa thân thành tấm lụa đào phất phơ giữa chợ không biết vào tay ai, khi thì hóa thân thành giếng giữa đường cho người rửa chân rửa mặt, khi thì lại là hạt mưa sa vào đài các hoặc ra ruộng cày.Cũng có lúc, ta bắt gặp hình ảnh của những người lao động cần cù, chịu thương chịu khó qua hình ảnh của con cò lam lũ, vất vả, của con tằm nằm nhả tơ, của đàn kiến nhỏ li ti, của con cuốc kêu không ai thấu, hay của hạc gầy bay mỏi cánh,… Ông cha ta đã mượn hình ảnh của những con vật nhỏ bé để khắc họa hình tượng của những người dân lao động thấp cổ bé họng, bị áp bức, sống một cuộc sống lam lũ, khổ sở. Đặc biệt là những người phụ nữ trong xã hội phong kiến, phải sống một cuộc đời vô định, không được tự quyết định cuộc đời của mình. Họ bị gò buộc trong tam tòng tứ đức, của lễ giáo phong kiến hà khắc. Trong truyện ngắn “Sống chết mặc bay”, tác giả Phạm Duy Tốn đã tái hiện hình ảnh của những người nông dân trong đêm mưa lũ, đê đứng trước nguy cơ vỡ. Đó là một đêm mưa lớn tầm tã, nước sông cuồn cuộn tràn vào đê, sức người dường như không địch nổi lại với sức nước. Những người dân lao động đứng trước nguy cơ mất nhà mất cửa, mất vợ mất con, tính mạng của họ cũng bị đe dọa trước dòng nước lũ. Ấy thế mà, vị quan phụ mẫu có vai trò chăm lo cho đời sống của nhân dân lại mặc kệ, lại thỏa sức ăn chơi phè phưỡn, không chút quan tâm đến những người nông dân khốn cùng ấy. Hắn ta thản nhiên tận hưởng những thứ xa hoa, ăn chơi trác táng trên sức lao động của nhân dân.Dù cho đêm đó mưa có lớn đến thế nào thì số phận của người dân vẫn phải một mình căng sức chống chọi với dòng nước lũ, còn tên quan thì là một kẻ lòng lang dạ sói, không cần quan tâm đến sinh mệnh của nhân dân. Tóm lại, số phận của những người dân lao động trong ca dao than thân và trong truyện ngắn Sống chết mặc bay là số phận của những người dân lao động lam lũ, vất vả nhưng đều bị những kẻ cầm quyền xã hội làm cho khổ sở, điêu đứng.
CHÚC BẠN HỌC TỐT
CHO MÌNH HAY NHẤT NHÉ