Theo bà Sophie Quinn-Judge, đại học LSE, London, tác giả cuốn “Hồ Chí Minh: Những năm chưa biết đến” (Hochiminh: The missing years) việc cha ông, Nguyễn Sinh Sắc bị miễn nhiệm tại tỉnh Bình Định, đã có tác động đến cuộc sống của ông. Nguyễn Tất Thành buộc phải thôi học ở trường Quốc học Huế và trở thành thầy giáo tại Phan Thiết. Rồi ông vào Nam và ra nước ngoài.[1]
Ngày5 tháng 6năm1911, từBến Nhà Rồng, ông lấy tênVăn Ba, lên đường sangPhápvới nghề phụ bếp trên chiếc tàu buônĐô đốc Latouche-Trévillecủa hãng vận tải Hợp nhất (Compagnie des Chargeurs réunis), thường được gọi nôm na là hàng Nǎm Sao, với mong muốn học hỏi những tinh hoa và tiến bộ từ các nước phương Tây[2].
Trongthập niên 1960, khi nói chuyện với khách nước ngoài, ông cho biết rằng ông đã từng là lính thủy[3].
Khi mới sang Pháp, ông có làm đơn xin được vào học tại Trường hành chính thuộc địa, nhưng không được chấp thuận (trong đơn này ông tự ghi là sinh năm 1892). Ngày 31 tháng 11 năm 1912, ông chuyển 15 đồng bạc Đông Dương cho cha mình.
Đầu tháng 12 năm 1912, ông sangHoa Kỳ. Ngày 15 tháng 12 năm 1912, từNew York, ông viết thư cho Khâm sứTrung Kỳnhờ tìm địa chỉ cha mình và muốn xin cho người cha một công việc. Thư này ông ký tên làPaul Tất Thành.
Cuối năm 1913, Nguyễn Tất Thành rời nước Mỹ sang nước Anh làm nghề cào tuyết cho một trường học, đốt lò rồi phụ bếp cho khách sạn.
Đầu năm 1914, ông gửi thư choPhan Châu Trinh, thông báo vắn tắt tình hình bản thân, đưa ra những nhận xét về chiến tranh thế giới đang diễn ra và dự đoán những chuyển biến có thể có. Ông cũng gửi choPhan Châu Trinhmột bài thơ thất ngôn bát cú với hai câu mở đầu như sau:
Chọc trời khuấy nước tiếng đùng đùng Phải có kiên cương mới gọi hùng và hai câu kết:
Ba hột đạn thầm hai tấc lưỡi Sao cho ích giống mấy cam lòng.
Ngày 16 tháng 4 năm 1915, ông viết thư choToàn quyền Đông Dương, thông qua lãnh sự Anh tạiSài Gòn, nhờ tìm địa chỉ của cha. Thư ký tênPaul Thành.
Cuối năm 1917, ông trở lại nước Pháp, sống và hoạt động ở đây cho đến năm 1923.
Trong thời gian ở Pháp, ông làm thợ ảnh và trọ tại ngôi nhà số 9, ngõ Côngpoanh (Compoint), quận 17, Paris. Căn phòng trọ rất thiếu thốn tiện nghi, không có lò sưởi nên mùa đông rất lạnh. Bởi vậy, cũng giống như những người nghèo ở Pháp khi đó, mỗi buổi sáng mùa đông trước khi đi làm, ông để một viên gạch vào lò bếp của bà chủ nhà (tên là Jammot), chiều về lấy viên gạch ra, bọc vào trong những tờ báo cũ rồi lót xuống nệm cho đỡ rét[4]Khi viên gạch được quấn nhiều lần bằng vải hoặc chăn, nhiệt sẽ được giữ lại khá lâu giống mộttúi sưởi. Phương pháp này có vẻ kỳ lạ với người thời nay, nhưng đây là cách sưởi ấm giường rất phổ biến của người nghèo châu Âu vào đầu thế kỷ 20[5]Hình ảnhviên gạch hồngđã trở thành nguồn cảm hứng của nhiều bài thơ viết về Hồ Chí Minh. Sau này,Tổng Lãnh sự Phápở Thành phố Hồ Chí Minh đã đích thân tặngBảo tàng Hồ Chí Minhmột viên gạch được phục chế trên cơ sở viên gạch cùng thời mà Nguyễn Ái Quốc đã dùng[6]
Thời kì ở Pháp[sửa|sửa mã nguồn]Nguyễn Ái Quốc, đại biểu Đông Dương thuộc Pháp trong thời gian dự Đại hội thành lập Đảng Cộng sản Pháp tại Marseille, năm 1921
Ngày18 tháng 6năm1919, nhân danh một nhóm người Việt Nam yêu nước[7], ông phổ biến “Yêu sách của nhân dân An Nam”, gồm tám điểm và được viết bằngtiếng Pháp(Revendications du peuple annamite), ký tên Nguyễn Ái Quốc và gửi tới Hội nghị Hòa bìnhVersailles, đòi chính phủ Pháp ân xá chính trị phạm, thực hiện các quyềntự do,dân chủvà quyềnbình đẳngcủa dân tộc Việt Nam. Ông còn gửi thư riêng kèm theo bản yêu sách cho các đoàn đại biểu Đồng Minh dự hội nghị, nhưng không gây được sự chú ý[8]. Từ đó ông dùng tênNguyễn Ái Quốc.
Vào tháng 7 năm1920, Nguyễn Ái Quốc đọcSơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địacủaLeninđăng trên báoL’Humanité(tờ này là cơ quan phát ngôn củaĐảng Cộng sản Pháp), từ đó ông đi theochủ nghĩa cộng sản. Ông tham dự Đại hội lần thứ 18 củaĐảng Xã hội PháptạiToursvới tư cách là đại biểuĐông Dương, trở thành một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp. Sau này, ông thừa nhận: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước chứ không phải chủ nghĩa cộng sản đã làm tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế III“[9].
Tranh biếm họa của Nguyễn Ái Quốc cho tờLe Paria, đời sống người dân dưới ách thống trị của thực dân Pháp
Năm1921, ông cùng một số nhà yêu nước của các thuộc địa Pháp lập raHội Liên hiệp Thuộc địa(Union intercoloniale – Association des indigènes de toutes les colonies). Năm1922, ông cùng một số nhà cách mạng thuộc địa ra báoLe Paria(Người cùng khổ).[10]Tờ này ra được 38 số với mỗi số bán được quãng 1000 tới 5000 bản, một con số thuyết phục vào lúc bấy giờ[11].Ngoài ra, ông viết bài cho hàng loạt báo khác.[12]. Tác phẩmBản án chế độ thực dân Pháp(Le procès de la colonisation française) do ông viết được xuất bản năm1925, đã tố cáo chính sách thực dân tàn bạo của Pháp và đề cập đến phong trào đấu tranh của các dân tộc thuộc địa.[13]Ông là trưởng Tiểu banĐông Dươngcủa Đảng Cộng sản Pháp.
Năm1923, với tư cách đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, ông ra tranh cử vàoHạ viện Pháp, nhưng thất bại. Trong lần đầu tiên tham gia bầu cửQuốc hộiđó, Đảng Cộng sản Pháp giành được tất cả 1,2 triệu phiếu ủng hộ trên tổng số 5 triệu phiếu cử tri, nhưng Nguyễn Ái Quốc trượt chân dân biểu Quốc hội[14].[15]
Trong toàn bộ thời gian sống trên đất Pháp, ông trang trải cuộc sống bằng cách làm việc nửa ngày. Thoạt đầu, ông làm thuê tại một tiệm rửa ảnh và đượcPhan Văn Trườngnhượng quyền cho thuê lại một căn phòng. Sau đó, ông đi vẽ khoán cho một xưởng vẽ truyền thần và thuê một phòng tại căn nhà số 9 ngõ Compoint,Quận 17, Paris[16].Ông theo học dự thính tạiĐại học Sorbonnevà được coi là mọt sách tạiThư viện Quốc gia Pháp[17].
Thời kì ở Liên Xô lần thứ nhất[sửa|sửa mã nguồn]
Tháng 6 năm 1923,[18]Nguyễn Ái Quốc đếnMoskvahọc tập tại trườngĐại học Phương ĐôngcủaQuốc tế Cộng sản[19]. Tại Đại hội lần thứ 5 Quốc tế Cộng sản ông được cử làm ủy viên Ban Phương Đông, phụ trách Cục Phương Nam[20].
Nếu nhưMarxbàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản,Leninbàn nhiều về cuộc đấu tranh chốngchủ nghĩa đế quốc, thì Nguyễn Ái Quốc dành sự quan tâm đặc biệt đến cuộc đấu tranh chốngchủ nghĩa thực dân. Trong Tham luận trình bày tại Đại hội lần thứ năm của Quốc tế Cộng sản (1924), Nguyễn Ái Quốc chỉ ra sự to lớn củahệ thống thuộc địa:“Năm 1876: 1/4 tỷ người dân thuộc địa thì năm 1914: 1/2 tỷ dân thuộc địa. Đến đầu những năm 20, diện tích các nước thuộc địa gấp 5 diện tích các nước chính quốc, còn dân số chính quốc chưa bằng 3/5 số dân các nước thuộc địa. Số dân thuộc địa Anh đông gấp hơn 8,5 số dân nước Anh còn đất đai rộng gấp 252 lần của nước Anh…”[21]
Ngày 23-6-1924, phát biểu tại phiên họp thứ 8 Đại hội 5, Nguyễn Ái Quốc nói:“Tôi đến đây không ngừng lưu ý Quốc tế Cộng sản đến một sự thật là: thuộc địa vẫn đang tồn tại, và vạch ra để Quốc tế Cộng sản thấy rằng: cách mạng, ngoài vấn đề tương của các thuộc địa còn có cả nguy cơ của các thuộc địa. Song, tôi thấy rằng hình như các đồng chí chưa hoàn toàn thấm nhuần tư tưởng rằng vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa. Vì vậy, tôi sẽ tận dụng mọi cơ hội có được, gợi ra những vấn đề và nếu cần, tôi sẽ thức tỉnh các đồng chí về vấn đề thuộc địa”.[22]
Trong thời gian ở Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc tranh thủ viết bài cho các báo Nhân đạo (L’Humanité), Đời sống công nhân (La Vie Ouvrière), Sự thật (Pravda), Người cùng khổ (Le Paria), Thư tín quốc tế (Inprékor), Tạp chí Cộng sản vv.v.. Các bài báo tập trung nói về các vấn đề liên quan đến giai cấp công nhân, đến cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân ở các thuộc địa, mối quan hệ giữa cách mạng vô sản ở chính quốc và cách mạng thuộc địa.
Nguyễn Ái Quốc đặc biệt quan tâm đến chiến lược quân sự của các nước lớn đối với khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Sau khi phân tích những động thái quân sự củaNhật Bảnở đảoYap, Mỹ tăng cường tàu chiến ở Thái Bình Dương, Pháp củng cố hệ thống thuộc địa vành đai Thái Bình Dương, Nguyễn Ái Quốc dự đoán chính xác rằng khu vực này“tương lai có thể trở thành lò lửa của cuộcchiến tranh thế giới mới”[23]
Thời kì ở Trung Quốc (1924-1927)[sửa|sửa mã nguồn]
Ngày 11 tháng 11 nǎm 1924, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô tới Quảng Châu, lấy tên làLý Thụy, làm phiên dịch trong phái đoàn cố vấn của chính phủ Liên Xô bên cạnh Chính phủ Trung Hoa Dân quốc[24].
Thời gian này ông cũng gặp mặt một số nhà cách mạng lão thành người Việt đang sống và hoạt động lưu vong trên đất Trung Quốc, trong đó cóPhan Bội Châu. Trong một báo cáo gửi đoàn chủ tịch Quốc tế Cộng sản đề ngày 18 tháng 12 năm 1924, ông viết về Phan Bội Châu:
“Ông ấy không hiểu chính trị và lại càng không hiểu việc tổ chức quần chúng,tôi đã giải thích cho ông ấy hiểu sự cần thiết của tổ chức và sự vô ích của những hành động không có cơ sở. Ông ấy đã đưa tôi một bản danh sách của 14 người Việt Nam đã cùng ông ta hoạt động bấy lâu.”
Trong nhóm 14 người này có một số thành viên của Tâm tâm xã – một tổ chức cấp tiến hoạt động từ 1923 với những thành viên như Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Phạm Hồng Thái, Lê Hồng Phong, Lâm Đức Thụ,…thành viên đầu tiên của Tâm tâm xã là Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Giản Thanh, Đặng Xuân Hồng, Trương Quốc Huy, Lê Cầu, Nguyễn Công Viễn; đến đầu năm 1924 thìLê Hồng PhongvàPhạm Hồng Tháiđược kết nạp.
Nguyễn Ái Quốc
Năm 1925, ông (lúc này mang tênVương) lựa chọn một số phần tử tích cực của Tâm tâm xã, huấn luyện thêm và trên cơ sở đó, lập ra Cộng sản đoàn, rồi tiếp tục dựa trên Cộng sản đoàn mà thành lập Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội (hay còn gọi là Hội Việt Nam cách mạng thanh niên) vào tháng 6. Hội này phái người về nước vận động và đưa thanh niên sang Quảng Châu đào tạo. Cho tới 1927, hội mở được 3 khoá gần 10 lớp huấn luyện, đào tạo 75 hội viên, mỗi khóa chỉ kéo dài 2-3 tháng. Nguyễn Ái Quốc đứng lớp, Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn phụ giảng. Việc làm quan trọng nhất của hội trong thời gian này là cử được người đi học tại Đại học Phương Đông (Liên Xô) và trường Quân chính Hoàng Phố của Quốc dân Đảng Trung Quốc. Nguyễn Hải Thần và Vũ Hồng Khanh cũng từng làm việc hoặc học tập ở trường Hoàng Phố. Trần Phú, Lê Hồng Phong, Bùi Công Trừng, Phùng Chí Kiên, Lê Thiết Hùng, Nguyễn Sơn,… là những người được đưa đi đào tạo tại một trong hai trung tâm trên. Phần lớn người khác, như Nguyễn Lương Bằng, sau đó về nước hoạt động. Chương trình học tập gồm:
Học “nhân loại tiến hóa sử”, nhưng chủ yếu học thời kì tư bản chủ nghĩa cho tới đế quốc chủ nghĩa; sau đó học lịch sử vận động giải phóng của Triều Tiên, Trung Quốc, Ấn Độ, lịch sử mất nước của Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác-Lenin, học có phê phán chủ nghĩa Tam dân và chủ nghĩa Gandhi.
Phần sau là về tổ chức: lịch sử và tổ chức ba Quốc tế Cộng sản, các tổ chức phụ nữ, thanh niên quốc tế, quốc tế cứu tế đỏ, quốc tế nông dân.
Phần cuối là về vận động quần và tổ chức quần chúng, bài tập là các buổi thực tập. Sau mỗi tuần có “báo cáo học vấn” tại các tiểu tổ, học viên tự kiểm tra, phê bình và tự phê bình lẫn nhau.
Ông cũng lập ra tờThanh niênlàm cơ quan phát ngôn của hội tới tháng 2 năm 1930, tờ này ra được 208 số. CuốnĐường Kách mệnhtập hợp các bài giảng của ông, được Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông xuất bản năm 1927. Ông cho rằng để cách mạng thành công, phải coi học trò, nhà buôn, điền chủ nhỏ đều là bầu bạn của cách mạng. Tư tưởng này của ông trong đầu thập niên 1930 đã vấp phải sự phê phán của một số người cộng sản Việt Nam khác. Ngoài ra, trong thập niên 1920, một trong những quan điểm của ông về cách mạng là: cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có thể bùng nổ và giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
Có bằng cớ là trong thời gian ở Quảng Châu, ông đã kết hôn với một hộ lý Trung Quốc tên làTăng Tuyết Minh, đảng viênĐảng Cộng sản Trung Quốc(ngày 18 tháng 10 năm 1926) và sống với nhau cho đến khi ông rời Quảng Châu, vào khoảng tháng 4 năm 1927, từ đó không bao giờ còn gặp lại.[25]Nhưng ông cũng đã từng cho rằng ông chưa bao giờ lập gia đình và có vợ con
Cùng năm 1925, ông tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông, do Liêu Trọng Khải, một cộng sự thân tín của Tôn Dật Tiên, làm hội trưởng và ông làm bí thư.
Tháng 5 năm 1927, chính quyềnTrung Hoa Dân Quốcđặt những người cộng sản ra ngoài vòng pháp luật, ông rời Quảng Châu đi Hồng Kông, rồi sang Moskva. Tháng 11 năm 1927, ông được cử đi Pháp, rồi từ đó đi dự cuộc họp Đại hội đồng của Liên đoàn chống chiến tranh đế quốc từ ngày 9 tháng 12 đến ngày 12 tháng 12 năm 1927 tạiBruxelles, Bỉ. Sau đó, ông cũng qua Ý.
Những năm 1928, 1929[sửa|sửa mã nguồn]
Mùa thu1928, Hồ Chí Minh từchâu ÂuđếnThái Lan, với bí danhThầu Chín(trongtiếng Tháivàtiếng Lào, “thầu” chỉ người nhiều tuổi và biểu thị sự tôn kính) để tuyên truyền và huấn luyện choViệt kiều, đồng thời móc nối một số thanh thiếu niên Việt Nam sang Thái Lan hoạt động. TheoBác Hồ – hồi ký, phần kể của Lê Mạnh Trinh thì khi đó có khoảng 2 vạn người Việt sống ở Thái Lan, kiếm sống chủ yếu bằng lao động và sinh sống khá rải rác, thiếu liên kết, tập trung nhiều hơn cả là ở vùng Đông Bắc. Cho tới thời điểm 1928, đa số họ mới di cư sang Thái Lan trong vòng khoảng mấy chục năm. Ngô Quảng, Thần Sơn,Phan Bội Châu,Đặng Tử Kính… đã từng hoạt động tại Thái, tuy nhiên không ai trong số họ tuyên truyền và tổ chức cho Việt kiều cả.
Hồ Chí Minh chủ trương tuyên truyền cho kiều bào và tổ chức họ vào những hội thân ái, tổ chức các buổi sinh hoạt văn hóa cho họ, xin chính phủ Thái cho mở trường dành cho Việt kiều,[26]Hồ Chí Minh đi (chủ yếu là đi bộ) và vận động hầu khắp các vùng có kiều bào ở Thái Lan[27]. Giống như tại nhiều nơi đã hoạt động, ông cho in báo – tờThân ái.
Cuối năm1929, Hồ Chí Minh rờiThái Lan, theo ngả Singapore để sang Trung Quốc.
Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam[sửa|sửa mã nguồn]
Ba tổ chức cộng sản tại Việt Nam, tuy mới thành lập nhưng đã mâu thuẫn rõ rệt và tranh giành sự ủng hộ của quần chúng. Đông Dương Cộng sản Đảng phê An Nam Cộng sản Đảng là“hoạt đầu, giả cách mạng”; An Nam Cộng sản Đảng chỉ trích Đông Dương Cộng sản Đảng là“chưa thật cộng sản”, “chưa thật Bôn-sê-vích”…[cần dẫn nguồn]Ngày3 tháng 2năm1930(hoặc ngày 6 tháng 1 năm 1930[28]), tại Cửu Long (九龍) thuộcHương Cảng, ông thống nhất ba tổ chức đảng cộng sản thànhĐảng Cộng sản Việt Namtrong một hội nghị được tổ chức tại nhà một người công nhân, ngoài ông còn có năm người khác là các đại diện cộng sản. Các văn kiện quan trọng nhất (như Chính cương vắn tắt, Sách lược, Điều lệ vắn tắt của Đảng, Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng) của hội nghị này đều do ông soạn thảo và được cho là thể hiện những quan điểm và tư tưởng khác với chủ trương khi đó của Quốc tế Cộng sản. Bởi vậy, khiTrần Phúvề nước vào tháng 4 năm 1930 thì được bầu bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương Lâm thời của Đảng và được giao soạn thảo Luận cương chính trị cũng như trở thành Tổng bí thư. Luận cương chính trị này, theo như nhận định chính thống trong các văn kiện và tài liệu ở giai đoạn sau của Đảng Cộng sản Việt Nam, mang tính tả khuynh rõ rệt.
Tháng 3 năm 1930, ông trở lại Thái Lan trong một thời gian ngắn, sau đó quay lại Trung Hoa.
Những năm 1931 – 1933[sửa|sửa mã nguồn]
Năm1931, dưới tên giả làTống Văn Sơ, Nguyễn Ái Quốc bị nhà cầm quyền Hương Cảng bắt giam. Ông bị giam cả thảy hơn một năm. Ban đầu chính quyền Anh tại Hương Cảng dự định trục xuất ông với ý định lực lượng của Pháp sẽ bắt ông và đưa về Việt Nam. Tại đó Pháp sẽ thi hành ngay tức thì bản án tử hình vắng mặt cho Nguyễn Ái Quốc đã được tuyên tại Tòa án Vinh từ tháng 10/1929.[29]
Các đồng chí của ông – (Hồ Tùng MậuvàTrương Vân Lĩnh) liên hệ được với Công hội Đỏ và gia đình luật sưFrank Losebycan thiệp, bào chữa cho ông. Sau nửa năm phiên tranh tụng, ngày 28/12/1932, tại tòa án trongđiện Buckingham, có mặt Đức vua Anh, hầu tước chánh án đã phán quyết Tống Văn Sơ vô tội[30]. Ông bèn xuống tàu sang Tân-gia-ba (Singapore), song vẫn bị mật thám theo dõi. Tàu vừa cập bến Tân-gia-ba, cảnh sát đón bắt và áp giải Tống Văn Sơ xuống tàu Hồ San quay về Hương Cảng. Họ tuyên bố rằng, chính quyền Tân-gia-ba không phụ thuộc vào bất cứ lệnh nào của các chính quyền khác, bởi thế, cũng không bắt buộc phải thi hành việc đảm bảo của chính quyền Hương Cảng.
Tại nhà tù, Tống Văn Sơ tìm cách liên lạc được với luật sư Loseby thông qua một lính gác. Trong vai trò luật sư, Loseby đã chính thức gặp nhà chức trách, phê phán họ đã chống lại lệnh tuyên án của Cơ mật viện, để cho cảnh sát bắt lại Tống Văn Sơ một cách trái phép. Chính quyền Hương Cảng lúc đó biết không thể giam giữ Tống Văn Sơ, nên đã phải can thiệp để Sở cảnh sát Hương Cảng thả Tống Văn Sơ sau mấy ngày giam giữ[31].
Lần này để tránh mật thám, Ông được Loseby bố trí lên một chiếc cano bí mật ra khỏi Hương Cảng, cập mạn một chiếc tàu khác. Sau đó, luật sư Loseby vẫn chưa cảm thấy yên tâm, ông liền tung tin Tống Văn Sơ đã chết trong bệnh viện lao ở Hương Cảng. Mấy hôm sau, tờ Nhân đạo củaĐảng Cộng sản Phápđăng tin Nguyễn Ái Quốc đã mất tại Hương Cảng. Mật thám Pháp cũng tin vào cái chết của Nguyễn Ái Quốc và thôi truy lùng. Trong tập hồ sơ của sở mật thám Đông Dương lập về Nguyễn Ái Quốc, ở trang cuối cùng ghi:“Nguyễn Ái Quốc đã chết trong nhà tù tại Hương Cảng”[32].
Sau khi ởHạ Mônkhoảng năm, sáu tháng, đầu năm 1933, ông lênThượng Hải.[33]Từ đây, ông được Đảng Cộng sản Trung Quốc bố trí đưa đi Liên Xô[34].
Những năm 1933 – 1938[sửa|sửa mã nguồn]
Đầu năm 1933, Nguyễn Ái Quốc đã có mặt ởLiên Xô. Ông dự Đại hội lần thứ 7 Quốc tế Cộng sản (từ ngày25 tháng 7đến ngày20 tháng 8năm 1935), nhưng không được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương của Quốc tế Cộng sản. Đại diện của Việt Nam tại Ban Chấp hành này là Lê Hồng Phong. Theo tài liệu của một số nhà sử học, ông bị ép buộc phải ở lại Liên Xô và bị giam lỏng (hoặc nói nhẹ hơn là bị kỷ luật), do bị nghi ngờ về lý do ông được nhà cầm quyền Hương Cảng trả tự do[35]. Ông phụ trách chung những người cộng sản Việt Nam và theo học khóa ngắn hạn tại trường Lenin là trường Đảng cao cấp dành cho các lãnh tụ cộng sản nước ngoài (1934-1935). Năm 1935, ông được bầu làm đại diện của Đảng Cộng sản Đông Dương bên cạnh Quốc tế Cộng sản.[36].Trong khiLê Hồng Phong,Nguyễn Thị Minh Khai… về nước từ 1936 và các học sinh người Việt Nam không tiếp tục sang Liên Xô nữa thì ông vẫn phải ở lại Liên Xô. Thời gian này ông có theo học lớp nghiên cứu sinh sử học của Viện nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa nhưng sau đó không tốt nghiệp. Ông rời Liên Xô vào mùa thu năm 1938.
Ít nhất ông có hai tên gọi trong thời kì ở Liên Xô: ở trường Lenin ông lấy tên làLi Nốp, đối với nhóm học sinh ở Viện nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa ông lấy tên làLin[37].
Trong những năm 1931-1935, ông đã bịTrần Phúvà sau đó làHà Huy Tậpphê phán về đường lối cải lương, không đúng đường lốiđấu tranh giai cấpcủa Quốc tế Cộng sản[38]. Hà Huy Tập đã viết trên tạp chíBônsơvích(số 8/12-1934):
“…chúng ta không được quên những tàn tích quốc gia chủ nghĩa của Nguyễn Ái Quốc và những chỉ thị sai lầm của đồng chí ấy về những vấn đề căn bản của phong trào cách mạng tư sản dân quyền và những lý luận cơ hội của đồng chí ấy bám rễ vào đầu óc của phần đông đồng chí chúng ta, giống như những tàn tích tư sản vẫn sống dai dẳng trong đầu óc những hội viên Thanh Niên, Tân Việt và Vừng Hồng.Nguyễn Ái Quốc không hiểu được những chỉ thị của Quốc tế cộng sản; không hợp nhất được ba tổ chức cộng sản từ trên xuống dưới… Tài liệu Sách lược vắn tắt của Đảng và Điều lệ của Đảng hợp nhất không theo đúng chỉ thị của Quốc tế cộng sản. Ngoài ra Nguyễn Ái Quốc còn chủ trương một sách lược cải lương và hợp tác: “trung lập tư sản và phú nông”, “liên minh với địa chủ nhỏ và vừa”, v.v. Vì những sai lầm đó, nên từ tháng Giêng đến tháng 10 năm 1930, Đảng Cộng sản Đông Dương đã đi theo một chiến lược có nhiều điểm trái với những chỉ thị của Quốc tế cộng sản, tuy trong thực tế đã lãnh đạo quần chúng kiên quyết đấu tranh cách mạng.“[39]Từ năm 1938 đến đầu năm 1941[sửa|sửa mã nguồn]
Năm1938, ông trở lại Trung Quốc. Trong vai thiếu táBát Lộ quânHồ Quang, Nguyễn Ái Quốc đến công tác tại văn phòng Bát Lộ quân Quế Lâm, sau đó điQuý Dương,Côn Minhrồi đếnDiên An, căn cứ đầu não của Đảng Cộng sản Trung Quốc vàHồng quân Trung Quốcvào mùa đông 1938. Khi này đang là thời kì Quốc-Cộng hợp tác trong cuộc kháng chiến chốngNhật,Tưởng Giới Thạchcó đề nghị Đảng Cộng sản Trung Quốc cử một đoàn cán bộ đi hướng dẫn cho Quốc Dân Đảng về kỹ thuật chiến đấu du kích. Tổng phụ trách đoàn làDiệp Kiếm Anh. Từ tháng 6 năm 1939, Hồ Quang được gửi tới phái đoàn này làm người phụ trách chính trị[40].[41]Trên thực tế, ban lãnh đạoĐảng Cộng sản Đông Dươnglúc này cũng mất liên lạc với ông tới tháng 1 năm 1940 (thời kì này lấy bí danh làTrần)[42].
Nhận xét giai đoạn những năm 1930[sửa|sửa mã nguồn]
Có thể nhận xét rằng cho tới giai đoạn này, ngoại trừ hoạt động khi thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930, vai trò của ông trong quá trình ra quyết định ở hàng ngũ lãnh đạo cộng sản cũng như sự tham gia trực tiếp vào các sự kiện liên quan đến những người cộng sản tại Việt Nam là không nhiều. Từ thập niên 1920, các tác phẩm chính trị cũng như báo chí do ông viết đã được chuyển về nước. Trong thời kì Mặt trận Dân chủ Đông Dương (1936-1939), ông có viết báo và gửi bài về in trên tờNotre Voix– tờ báo công khai của Đảng bằngtiếng Pháp– dưới bút danhP.C. Lin[43]. Một trong những việc mà ông thường làm mỗi khi có sự kiện xảy ra ở Việt Nam là viết thư đề nghị hoặc báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản, nhưng kết quả của những tác động đó là hạn chế. Khikhởi nghĩa Nam Kỳnổ ra, ông – khi này đang ở Trung Quốc và chỉ biết tin qua báo chí – đã viết một bức điện với nội dung rằng thời cơ hành sự chưa chín, nhẽ ra không thể tiến hành khởi nghĩa vũ trang, nhưng khi chuyện đã rồi thì cần rút lui cho khéo nhằm duy trì được phong trào. Nhưng bức điện này không chuyển đi được[44].
Thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam
Thời kì 1911-1919[sửa | sửa mã nguồn]
Theo bà Sophie Quinn-Judge, đại học LSE, London, tác giả cuốn “Hồ Chí Minh: Những năm chưa biết đến” (Hochiminh: The missing years) việc cha ông, Nguyễn Sinh Sắc bị miễn nhiệm tại tỉnh Bình Định, đã có tác động đến cuộc sống của ông. Nguyễn Tất Thành buộc phải thôi học ở trường Quốc học Huế và trở thành thầy giáo tại Phan Thiết. Rồi ông vào Nam và ra nước ngoài.[1]
Ngày 5 tháng 6 năm 1911, từ Bến Nhà Rồng, ông lấy tên Văn Ba, lên đường sang Pháp với nghề phụ bếp trên chiếc tàu buôn Đô đốc Latouche-Tréville của hãng vận tải Hợp nhất (Compagnie des Chargeurs réunis), thường được gọi nôm na là hàng Nǎm Sao, với mong muốn học hỏi những tinh hoa và tiến bộ từ các nước phương Tây[2].
Trong thập niên 1960, khi nói chuyện với khách nước ngoài, ông cho biết rằng ông đã từng là lính thủy[3].
Khi mới sang Pháp, ông có làm đơn xin được vào học tại Trường hành chính thuộc địa, nhưng không được chấp thuận (trong đơn này ông tự ghi là sinh năm 1892). Ngày 31 tháng 11 năm 1912, ông chuyển 15 đồng bạc Đông Dương cho cha mình.
Đầu tháng 12 năm 1912, ông sang Hoa Kỳ. Ngày 15 tháng 12 năm 1912, từ New York, ông viết thư cho Khâm sứ Trung Kỳ nhờ tìm địa chỉ cha mình và muốn xin cho người cha một công việc. Thư này ông ký tên là Paul Tất Thành.
Cuối năm 1913, Nguyễn Tất Thành rời nước Mỹ sang nước Anh làm nghề cào tuyết cho một trường học, đốt lò rồi phụ bếp cho khách sạn.
Đầu năm 1914, ông gửi thư cho Phan Châu Trinh, thông báo vắn tắt tình hình bản thân, đưa ra những nhận xét về chiến tranh thế giới đang diễn ra và dự đoán những chuyển biến có thể có. Ông cũng gửi cho Phan Châu Trinh một bài thơ thất ngôn bát cú với hai câu mở đầu như sau:
Chọc trời khuấy nước tiếng đùng đùng
Phải có kiên cương mới gọi hùng
và hai câu kết:
Ba hột đạn thầm hai tấc lưỡi
Sao cho ích giống mấy cam lòng.
Ngày 16 tháng 4 năm 1915, ông viết thư cho Toàn quyền Đông Dương, thông qua lãnh sự Anh tại Sài Gòn, nhờ tìm địa chỉ của cha. Thư ký tên Paul Thành.
Cuối năm 1917, ông trở lại nước Pháp, sống và hoạt động ở đây cho đến năm 1923.
Trong thời gian ở Pháp, ông làm thợ ảnh và trọ tại ngôi nhà số 9, ngõ Côngpoanh (Compoint), quận 17, Paris. Căn phòng trọ rất thiếu thốn tiện nghi, không có lò sưởi nên mùa đông rất lạnh. Bởi vậy, cũng giống như những người nghèo ở Pháp khi đó, mỗi buổi sáng mùa đông trước khi đi làm, ông để một viên gạch vào lò bếp của bà chủ nhà (tên là Jammot), chiều về lấy viên gạch ra, bọc vào trong những tờ báo cũ rồi lót xuống nệm cho đỡ rét[4] Khi viên gạch được quấn nhiều lần bằng vải hoặc chăn, nhiệt sẽ được giữ lại khá lâu giống một túi sưởi. Phương pháp này có vẻ kỳ lạ với người thời nay, nhưng đây là cách sưởi ấm giường rất phổ biến của người nghèo châu Âu vào đầu thế kỷ 20[5] Hình ảnh viên gạch hồng đã trở thành nguồn cảm hứng của nhiều bài thơ viết về Hồ Chí Minh. Sau này, Tổng Lãnh sự Pháp ở Thành phố Hồ Chí Minh đã đích thân tặng Bảo tàng Hồ Chí Minh một viên gạch được phục chế trên cơ sở viên gạch cùng thời mà Nguyễn Ái Quốc đã dùng[6]
Thời kì ở Pháp[sửa | sửa mã nguồn]Nguyễn Ái Quốc, đại biểu Đông Dương thuộc Pháp trong thời gian dự Đại hội thành lập Đảng Cộng sản Pháp tại Marseille, năm 1921
Ngày 18 tháng 6 năm 1919, nhân danh một nhóm người Việt Nam yêu nước[7], ông phổ biến “Yêu sách của nhân dân An Nam”, gồm tám điểm và được viết bằng tiếng Pháp (Revendications du peuple annamite), ký tên Nguyễn Ái Quốc và gửi tới Hội nghị Hòa bình Versailles, đòi chính phủ Pháp ân xá chính trị phạm, thực hiện các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Ông còn gửi thư riêng kèm theo bản yêu sách cho các đoàn đại biểu Đồng Minh dự hội nghị, nhưng không gây được sự chú ý [8]. Từ đó ông dùng tên Nguyễn Ái Quốc.
Vào tháng 7 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lenin đăng trên báo L’Humanité (tờ này là cơ quan phát ngôn của Đảng Cộng sản Pháp), từ đó ông đi theo chủ nghĩa cộng sản. Ông tham dự Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp tại Tours với tư cách là đại biểu Đông Dương, trở thành một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp. Sau này, ông thừa nhận: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước chứ không phải chủ nghĩa cộng sản đã làm tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế III“[9].
Tranh biếm họa của Nguyễn Ái Quốc cho tờ Le Paria, đời sống người dân dưới ách thống trị của thực dân Pháp
Năm 1921, ông cùng một số nhà yêu nước của các thuộc địa Pháp lập ra Hội Liên hiệp Thuộc địa (Union intercoloniale – Association des indigènes de toutes les colonies). Năm 1922, ông cùng một số nhà cách mạng thuộc địa ra báo Le Paria (Người cùng khổ).[10] Tờ này ra được 38 số với mỗi số bán được quãng 1000 tới 5000 bản, một con số thuyết phục vào lúc bấy giờ[11].Ngoài ra, ông viết bài cho hàng loạt báo khác.[12]. Tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (Le procès de la colonisation française) do ông viết được xuất bản năm 1925, đã tố cáo chính sách thực dân tàn bạo của Pháp và đề cập đến phong trào đấu tranh của các dân tộc thuộc địa.[13] Ông là trưởng Tiểu ban Đông Dương của Đảng Cộng sản Pháp.
Năm 1923, với tư cách đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, ông ra tranh cử vào Hạ viện Pháp, nhưng thất bại. Trong lần đầu tiên tham gia bầu cử Quốc hội đó, Đảng Cộng sản Pháp giành được tất cả 1,2 triệu phiếu ủng hộ trên tổng số 5 triệu phiếu cử tri, nhưng Nguyễn Ái Quốc trượt chân dân biểu Quốc hội[14].[15]
Trong toàn bộ thời gian sống trên đất Pháp, ông trang trải cuộc sống bằng cách làm việc nửa ngày. Thoạt đầu, ông làm thuê tại một tiệm rửa ảnh và được Phan Văn Trường nhượng quyền cho thuê lại một căn phòng. Sau đó, ông đi vẽ khoán cho một xưởng vẽ truyền thần và thuê một phòng tại căn nhà số 9 ngõ Compoint, Quận 17, Paris[16].Ông theo học dự thính tại Đại học Sorbonne và được coi là mọt sách tại Thư viện Quốc gia Pháp[17].
Thời kì ở Liên Xô lần thứ nhất[sửa | sửa mã nguồn]
Tháng 6 năm 1923,[18] Nguyễn Ái Quốc đến Moskva học tập tại trường Đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản[19]. Tại Đại hội lần thứ 5 Quốc tế Cộng sản ông được cử làm ủy viên Ban Phương Đông, phụ trách Cục Phương Nam[20].
Nếu như Marx bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, Lenin bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, thì Nguyễn Ái Quốc dành sự quan tâm đặc biệt đến cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Trong Tham luận trình bày tại Đại hội lần thứ năm của Quốc tế Cộng sản (1924), Nguyễn Ái Quốc chỉ ra sự to lớn của hệ thống thuộc địa: “Năm 1876: 1/4 tỷ người dân thuộc địa thì năm 1914: 1/2 tỷ dân thuộc địa. Đến đầu những năm 20, diện tích các nước thuộc địa gấp 5 diện tích các nước chính quốc, còn dân số chính quốc chưa bằng 3/5 số dân các nước thuộc địa. Số dân thuộc địa Anh đông gấp hơn 8,5 số dân nước Anh còn đất đai rộng gấp 252 lần của nước Anh…”[21]
Ngày 23-6-1924, phát biểu tại phiên họp thứ 8 Đại hội 5, Nguyễn Ái Quốc nói: “Tôi đến đây không ngừng lưu ý Quốc tế Cộng sản đến một sự thật là: thuộc địa vẫn đang tồn tại, và vạch ra để Quốc tế Cộng sản thấy rằng: cách mạng, ngoài vấn đề tương của các thuộc địa còn có cả nguy cơ của các thuộc địa. Song, tôi thấy rằng hình như các đồng chí chưa hoàn toàn thấm nhuần tư tưởng rằng vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa. Vì vậy, tôi sẽ tận dụng mọi cơ hội có được, gợi ra những vấn đề và nếu cần, tôi sẽ thức tỉnh các đồng chí về vấn đề thuộc địa”.[22]
Trong thời gian ở Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc tranh thủ viết bài cho các báo Nhân đạo (L’Humanité), Đời sống công nhân (La Vie Ouvrière), Sự thật (Pravda), Người cùng khổ (Le Paria), Thư tín quốc tế (Inprékor), Tạp chí Cộng sản vv.v.. Các bài báo tập trung nói về các vấn đề liên quan đến giai cấp công nhân, đến cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân ở các thuộc địa, mối quan hệ giữa cách mạng vô sản ở chính quốc và cách mạng thuộc địa.
Nguyễn Ái Quốc đặc biệt quan tâm đến chiến lược quân sự của các nước lớn đối với khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Sau khi phân tích những động thái quân sự của Nhật Bản ở đảo Yap, Mỹ tăng cường tàu chiến ở Thái Bình Dương, Pháp củng cố hệ thống thuộc địa vành đai Thái Bình Dương, Nguyễn Ái Quốc dự đoán chính xác rằng khu vực này “tương lai có thể trở thành lò lửa của cuộc chiến tranh thế giới mới”[23]
Thời kì ở Trung Quốc (1924-1927)[sửa | sửa mã nguồn]
Ngày 11 tháng 11 nǎm 1924, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô tới Quảng Châu, lấy tên là Lý Thụy, làm phiên dịch trong phái đoàn cố vấn của chính phủ Liên Xô bên cạnh Chính phủ Trung Hoa Dân quốc[24].
Thời gian này ông cũng gặp mặt một số nhà cách mạng lão thành người Việt đang sống và hoạt động lưu vong trên đất Trung Quốc, trong đó có Phan Bội Châu. Trong một báo cáo gửi đoàn chủ tịch Quốc tế Cộng sản đề ngày 18 tháng 12 năm 1924, ông viết về Phan Bội Châu:
“Ông ấy không hiểu chính trị và lại càng không hiểu việc tổ chức quần chúng,tôi đã giải thích cho ông ấy hiểu sự cần thiết của tổ chức và sự vô ích của những hành động không có cơ sở. Ông ấy đã đưa tôi một bản danh sách của 14 người Việt Nam đã cùng ông ta hoạt động bấy lâu.”
Trong nhóm 14 người này có một số thành viên của Tâm tâm xã – một tổ chức cấp tiến hoạt động từ 1923 với những thành viên như Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Phạm Hồng Thái, Lê Hồng Phong, Lâm Đức Thụ,…thành viên đầu tiên của Tâm tâm xã là Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Giản Thanh, Đặng Xuân Hồng, Trương Quốc Huy, Lê Cầu, Nguyễn Công Viễn; đến đầu năm 1924 thì Lê Hồng Phong và Phạm Hồng Thái được kết nạp.
Nguyễn Ái Quốc
Năm 1925, ông (lúc này mang tên Vương) lựa chọn một số phần tử tích cực của Tâm tâm xã, huấn luyện thêm và trên cơ sở đó, lập ra Cộng sản đoàn, rồi tiếp tục dựa trên Cộng sản đoàn mà thành lập Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội (hay còn gọi là Hội Việt Nam cách mạng thanh niên) vào tháng 6. Hội này phái người về nước vận động và đưa thanh niên sang Quảng Châu đào tạo. Cho tới 1927, hội mở được 3 khoá gần 10 lớp huấn luyện, đào tạo 75 hội viên, mỗi khóa chỉ kéo dài 2-3 tháng. Nguyễn Ái Quốc đứng lớp, Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn phụ giảng. Việc làm quan trọng nhất của hội trong thời gian này là cử được người đi học tại Đại học Phương Đông (Liên Xô) và trường Quân chính Hoàng Phố của Quốc dân Đảng Trung Quốc. Nguyễn Hải Thần và Vũ Hồng Khanh cũng từng làm việc hoặc học tập ở trường Hoàng Phố. Trần Phú, Lê Hồng Phong, Bùi Công Trừng, Phùng Chí Kiên, Lê Thiết Hùng, Nguyễn Sơn,… là những người được đưa đi đào tạo tại một trong hai trung tâm trên. Phần lớn người khác, như Nguyễn Lương Bằng, sau đó về nước hoạt động. Chương trình học tập gồm:
Ông cũng lập ra tờ Thanh niên làm cơ quan phát ngôn của hội tới tháng 2 năm 1930, tờ này ra được 208 số. Cuốn Đường Kách mệnh tập hợp các bài giảng của ông, được Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông xuất bản năm 1927. Ông cho rằng để cách mạng thành công, phải coi học trò, nhà buôn, điền chủ nhỏ đều là bầu bạn của cách mạng. Tư tưởng này của ông trong đầu thập niên 1930 đã vấp phải sự phê phán của một số người cộng sản Việt Nam khác. Ngoài ra, trong thập niên 1920, một trong những quan điểm của ông về cách mạng là: cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có thể bùng nổ và giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
Có bằng cớ là trong thời gian ở Quảng Châu, ông đã kết hôn với một hộ lý Trung Quốc tên là Tăng Tuyết Minh, đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc (ngày 18 tháng 10 năm 1926) và sống với nhau cho đến khi ông rời Quảng Châu, vào khoảng tháng 4 năm 1927, từ đó không bao giờ còn gặp lại.[25] Nhưng ông cũng đã từng cho rằng ông chưa bao giờ lập gia đình và có vợ con
Cùng năm 1925, ông tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông, do Liêu Trọng Khải, một cộng sự thân tín của Tôn Dật Tiên, làm hội trưởng và ông làm bí thư.
Tháng 5 năm 1927, chính quyền Trung Hoa Dân Quốc đặt những người cộng sản ra ngoài vòng pháp luật, ông rời Quảng Châu đi Hồng Kông, rồi sang Moskva. Tháng 11 năm 1927, ông được cử đi Pháp, rồi từ đó đi dự cuộc họp Đại hội đồng của Liên đoàn chống chiến tranh đế quốc từ ngày 9 tháng 12 đến ngày 12 tháng 12 năm 1927 tại Bruxelles, Bỉ. Sau đó, ông cũng qua Ý.
Những năm 1928, 1929[sửa | sửa mã nguồn]
Mùa thu 1928, Hồ Chí Minh từ châu Âu đến Thái Lan, với bí danh Thầu Chín (trong tiếng Thái và tiếng Lào, “thầu” chỉ người nhiều tuổi và biểu thị sự tôn kính) để tuyên truyền và huấn luyện cho Việt kiều, đồng thời móc nối một số thanh thiếu niên Việt Nam sang Thái Lan hoạt động. Theo Bác Hồ – hồi ký, phần kể của Lê Mạnh Trinh thì khi đó có khoảng 2 vạn người Việt sống ở Thái Lan, kiếm sống chủ yếu bằng lao động và sinh sống khá rải rác, thiếu liên kết, tập trung nhiều hơn cả là ở vùng Đông Bắc. Cho tới thời điểm 1928, đa số họ mới di cư sang Thái Lan trong vòng khoảng mấy chục năm. Ngô Quảng, Thần Sơn, Phan Bội Châu, Đặng Tử Kính… đã từng hoạt động tại Thái, tuy nhiên không ai trong số họ tuyên truyền và tổ chức cho Việt kiều cả.
Hồ Chí Minh chủ trương tuyên truyền cho kiều bào và tổ chức họ vào những hội thân ái, tổ chức các buổi sinh hoạt văn hóa cho họ, xin chính phủ Thái cho mở trường dành cho Việt kiều,[26] Hồ Chí Minh đi (chủ yếu là đi bộ) và vận động hầu khắp các vùng có kiều bào ở Thái Lan [27]. Giống như tại nhiều nơi đã hoạt động, ông cho in báo – tờ Thân ái.
Cuối năm 1929, Hồ Chí Minh rời Thái Lan, theo ngả Singapore để sang Trung Quốc.
Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]
Ba tổ chức cộng sản tại Việt Nam, tuy mới thành lập nhưng đã mâu thuẫn rõ rệt và tranh giành sự ủng hộ của quần chúng. Đông Dương Cộng sản Đảng phê An Nam Cộng sản Đảng là “hoạt đầu, giả cách mạng”; An Nam Cộng sản Đảng chỉ trích Đông Dương Cộng sản Đảng là “chưa thật cộng sản”, “chưa thật Bôn-sê-vích”…[cần dẫn nguồn] Ngày 3 tháng 2 năm 1930 (hoặc ngày 6 tháng 1 năm 1930[28]), tại Cửu Long (九龍) thuộc Hương Cảng, ông thống nhất ba tổ chức đảng cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam trong một hội nghị được tổ chức tại nhà một người công nhân, ngoài ông còn có năm người khác là các đại diện cộng sản. Các văn kiện quan trọng nhất (như Chính cương vắn tắt, Sách lược, Điều lệ vắn tắt của Đảng, Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng) của hội nghị này đều do ông soạn thảo và được cho là thể hiện những quan điểm và tư tưởng khác với chủ trương khi đó của Quốc tế Cộng sản. Bởi vậy, khi Trần Phú về nước vào tháng 4 năm 1930 thì được bầu bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương Lâm thời của Đảng và được giao soạn thảo Luận cương chính trị cũng như trở thành Tổng bí thư. Luận cương chính trị này, theo như nhận định chính thống trong các văn kiện và tài liệu ở giai đoạn sau của Đảng Cộng sản Việt Nam, mang tính tả khuynh rõ rệt.
Tháng 3 năm 1930, ông trở lại Thái Lan trong một thời gian ngắn, sau đó quay lại Trung Hoa.
Những năm 1931 – 1933[sửa | sửa mã nguồn]
Năm 1931, dưới tên giả là Tống Văn Sơ, Nguyễn Ái Quốc bị nhà cầm quyền Hương Cảng bắt giam. Ông bị giam cả thảy hơn một năm. Ban đầu chính quyền Anh tại Hương Cảng dự định trục xuất ông với ý định lực lượng của Pháp sẽ bắt ông và đưa về Việt Nam. Tại đó Pháp sẽ thi hành ngay tức thì bản án tử hình vắng mặt cho Nguyễn Ái Quốc đã được tuyên tại Tòa án Vinh từ tháng 10/1929.[29]
Các đồng chí của ông – (Hồ Tùng Mậu và Trương Vân Lĩnh) liên hệ được với Công hội Đỏ và gia đình luật sư Frank Loseby can thiệp, bào chữa cho ông. Sau nửa năm phiên tranh tụng, ngày 28/12/1932, tại tòa án trong điện Buckingham, có mặt Đức vua Anh, hầu tước chánh án đã phán quyết Tống Văn Sơ vô tội[30]. Ông bèn xuống tàu sang Tân-gia-ba (Singapore), song vẫn bị mật thám theo dõi. Tàu vừa cập bến Tân-gia-ba, cảnh sát đón bắt và áp giải Tống Văn Sơ xuống tàu Hồ San quay về Hương Cảng. Họ tuyên bố rằng, chính quyền Tân-gia-ba không phụ thuộc vào bất cứ lệnh nào của các chính quyền khác, bởi thế, cũng không bắt buộc phải thi hành việc đảm bảo của chính quyền Hương Cảng.
Tại nhà tù, Tống Văn Sơ tìm cách liên lạc được với luật sư Loseby thông qua một lính gác. Trong vai trò luật sư, Loseby đã chính thức gặp nhà chức trách, phê phán họ đã chống lại lệnh tuyên án của Cơ mật viện, để cho cảnh sát bắt lại Tống Văn Sơ một cách trái phép. Chính quyền Hương Cảng lúc đó biết không thể giam giữ Tống Văn Sơ, nên đã phải can thiệp để Sở cảnh sát Hương Cảng thả Tống Văn Sơ sau mấy ngày giam giữ[31].
Lần này để tránh mật thám, Ông được Loseby bố trí lên một chiếc cano bí mật ra khỏi Hương Cảng, cập mạn một chiếc tàu khác. Sau đó, luật sư Loseby vẫn chưa cảm thấy yên tâm, ông liền tung tin Tống Văn Sơ đã chết trong bệnh viện lao ở Hương Cảng. Mấy hôm sau, tờ Nhân đạo của Đảng Cộng sản Pháp đăng tin Nguyễn Ái Quốc đã mất tại Hương Cảng. Mật thám Pháp cũng tin vào cái chết của Nguyễn Ái Quốc và thôi truy lùng. Trong tập hồ sơ của sở mật thám Đông Dương lập về Nguyễn Ái Quốc, ở trang cuối cùng ghi: “Nguyễn Ái Quốc đã chết trong nhà tù tại Hương Cảng”[32].
Sau khi ở Hạ Môn khoảng năm, sáu tháng, đầu năm 1933, ông lên Thượng Hải.[33] Từ đây, ông được Đảng Cộng sản Trung Quốc bố trí đưa đi Liên Xô[34].
Những năm 1933 – 1938[sửa | sửa mã nguồn]
Đầu năm 1933, Nguyễn Ái Quốc đã có mặt ở Liên Xô. Ông dự Đại hội lần thứ 7 Quốc tế Cộng sản (từ ngày 25 tháng 7 đến ngày 20 tháng 8 năm 1935), nhưng không được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương của Quốc tế Cộng sản. Đại diện của Việt Nam tại Ban Chấp hành này là Lê Hồng Phong. Theo tài liệu của một số nhà sử học, ông bị ép buộc phải ở lại Liên Xô và bị giam lỏng (hoặc nói nhẹ hơn là bị kỷ luật), do bị nghi ngờ về lý do ông được nhà cầm quyền Hương Cảng trả tự do[35]. Ông phụ trách chung những người cộng sản Việt Nam và theo học khóa ngắn hạn tại trường Lenin là trường Đảng cao cấp dành cho các lãnh tụ cộng sản nước ngoài (1934-1935). Năm 1935, ông được bầu làm đại diện của Đảng Cộng sản Đông Dương bên cạnh Quốc tế Cộng sản.[36].Trong khi Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai… về nước từ 1936 và các học sinh người Việt Nam không tiếp tục sang Liên Xô nữa thì ông vẫn phải ở lại Liên Xô. Thời gian này ông có theo học lớp nghiên cứu sinh sử học của Viện nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa nhưng sau đó không tốt nghiệp. Ông rời Liên Xô vào mùa thu năm 1938.
Ít nhất ông có hai tên gọi trong thời kì ở Liên Xô: ở trường Lenin ông lấy tên là Li Nốp, đối với nhóm học sinh ở Viện nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa ông lấy tên là Lin[37].
Trong những năm 1931-1935, ông đã bị Trần Phú và sau đó là Hà Huy Tập phê phán về đường lối cải lương, không đúng đường lối đấu tranh giai cấp của Quốc tế Cộng sản[38]. Hà Huy Tập đã viết trên tạp chí Bônsơvích (số 8/12-1934):
“…chúng ta không được quên những tàn tích quốc gia chủ nghĩa của Nguyễn Ái Quốc và những chỉ thị sai lầm của đồng chí ấy về những vấn đề căn bản của phong trào cách mạng tư sản dân quyền và những lý luận cơ hội của đồng chí ấy bám rễ vào đầu óc của phần đông đồng chí chúng ta, giống như những tàn tích tư sản vẫn sống dai dẳng trong đầu óc những hội viên Thanh Niên, Tân Việt và Vừng Hồng.Nguyễn Ái Quốc không hiểu được những chỉ thị của Quốc tế cộng sản; không hợp nhất được ba tổ chức cộng sản từ trên xuống dưới… Tài liệu Sách lược vắn tắt của Đảng và Điều lệ của Đảng hợp nhất không theo đúng chỉ thị của Quốc tế cộng sản. Ngoài ra Nguyễn Ái Quốc còn chủ trương một sách lược cải lương và hợp tác: “trung lập tư sản và phú nông”, “liên minh với địa chủ nhỏ và vừa”, v.v. Vì những sai lầm đó, nên từ tháng Giêng đến tháng 10 năm 1930, Đảng Cộng sản Đông Dương đã đi theo một chiến lược có nhiều điểm trái với những chỉ thị của Quốc tế cộng sản, tuy trong thực tế đã lãnh đạo quần chúng kiên quyết đấu tranh cách mạng.“[39]Từ năm 1938 đến đầu năm 1941[sửa | sửa mã nguồn]
Năm 1938, ông trở lại Trung Quốc. Trong vai thiếu tá Bát Lộ quân Hồ Quang, Nguyễn Ái Quốc đến công tác tại văn phòng Bát Lộ quân Quế Lâm, sau đó đi Quý Dương, Côn Minh rồi đến Diên An, căn cứ đầu não của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Hồng quân Trung Quốc vào mùa đông 1938. Khi này đang là thời kì Quốc-Cộng hợp tác trong cuộc kháng chiến chống Nhật, Tưởng Giới Thạch có đề nghị Đảng Cộng sản Trung Quốc cử một đoàn cán bộ đi hướng dẫn cho Quốc Dân Đảng về kỹ thuật chiến đấu du kích. Tổng phụ trách đoàn là Diệp Kiếm Anh. Từ tháng 6 năm 1939, Hồ Quang được gửi tới phái đoàn này làm người phụ trách chính trị[40].[41] Trên thực tế, ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Đông Dương lúc này cũng mất liên lạc với ông tới tháng 1 năm 1940 (thời kì này lấy bí danh là Trần)[42].
Nhận xét giai đoạn những năm 1930[sửa | sửa mã nguồn]
Có thể nhận xét rằng cho tới giai đoạn này, ngoại trừ hoạt động khi thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930, vai trò của ông trong quá trình ra quyết định ở hàng ngũ lãnh đạo cộng sản cũng như sự tham gia trực tiếp vào các sự kiện liên quan đến những người cộng sản tại Việt Nam là không nhiều. Từ thập niên 1920, các tác phẩm chính trị cũng như báo chí do ông viết đã được chuyển về nước. Trong thời kì Mặt trận Dân chủ Đông Dương (1936-1939), ông có viết báo và gửi bài về in trên tờ Notre Voix – tờ báo công khai của Đảng bằng tiếng Pháp – dưới bút danh P.C. Lin[43]. Một trong những việc mà ông thường làm mỗi khi có sự kiện xảy ra ở Việt Nam là viết thư đề nghị hoặc báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản, nhưng kết quả của những tác động đó là hạn chế. Khi khởi nghĩa Nam Kỳ nổ ra, ông – khi này đang ở Trung Quốc và chỉ biết tin qua báo chí – đã viết một bức điện với nội dung rằng thời cơ hành sự chưa chín, nhẽ ra không thể tiến hành khởi nghĩa vũ trang, nhưng khi chuyện đã rồi thì cần rút lui cho khéo nhằm duy trì được phong trào. Nhưng bức điện này không chuyển đi được[44].
Chú thích