từ những sự kiện lịch sử ở nước ta từ khi thực dân Pháp xâm lược để chứng minh câu nói của ông Nguyễn Trung Trực ” Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây”
từ những sự kiện lịch sử ở nước ta từ khi thực dân Pháp xâm lược để chứng minh câu nói của ông Nguyễn Trung Trực ” Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây”
Năm 1859 thực dân pháp tấn công vào thành Gia Định, ông đã tham gia vào đội nghĩa binh kháng chiến và được cử về hoạt động chống Pháp trên địa bàn phủ Tân An và phối hợp tác chiến với Trương Định. Năm 1861, ông chiêu mộ một số đông nông dân nổi dậy đánh phá các đồn Pháp ở các vùng thuộc phủ Tân An, nhờ lập được nhiều công lao, ông được triều đình Nguyễn phong chức Quản cơ nên còn gọi là Quản Chơn, hay Quản Lịch.
Được sự giúp đỡ của hương chức làng Nhật Tảo, ông đã bố trí một kế hoạch để đánh tàu Hi Vọng (pháo hạm L’Espérance) của quân xâm lược Pháp đang hoạt động trên Nhật Tảo (pháo hạm L’Espérance là tàu gỗ được bọc đồng chạy bằng hơi nước có thể ra vào những luồng lạch cạn, được trang bị một đại bác và nhiều vũ khí đa năng, là một trong những tàu thuộc hạng bậc nhất của hải quân Pháp lúc bấy giờ).
Tham gia trong trận chiến này có Nguyễn Trung Trực và các Phó quản binh Hoàng Khắc Nhượng, Võ Văn Quang, quản toán Nguyễn Học, lương thần Hồ Quang cùng 59 nghĩa quân cảm tử.
Sáng ngày 10 tháng 12 năm 1861, sau khi bố trí lực lượng phục kích trên bờ, nghĩa quân phân tán lên các thuyền nhỏ giả làm thuyền buôn tiến sát pháo hạm L’Espérance của địch và bất thần nhảy lên tiêu diệt địch. Sau khi làm chủ được chiến trường, nghĩa quân lấy búa phá tàu giặc nhưng không phá được nên đổ dầu, châm lửa đốt cháy tàu. Không kịp trở tay toàn bộ lính Pháp bị tiêu diệt. chiếc tàu dần chìm xuống đáy sông. Sau trận đốt cháy pháo hạm L’Espérance của thực dân Pháp, triều đình Huế đã phong Nguyễn Trung Trực chức Quản cơ và hậu thưởng cho nghĩa quân.
Sau đó, Nguyễn Trung Trực cùng nghĩa quân vẫn tiếp tục chiến đấu trên địa bàn Gia Định, Biên Hòa. Khi Hòa ước Nhâm Tuất (1862) đã ký, 3 tỉnh miền Đông rơi vào tay thực dân Pháp, Nguyễn Trung Trực rút quân về hoạt động ở 3 tỉnh miền Tây.
Năm 1867, ông về lập căn cứ chống Pháp ở Hòn Chông, Rạch Giá (nay thuộc xã Bình An, Huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang). Ở đó sau khi nắm được tình hình của đối phương và tập trung xong lực lượng (trong đó có cả hương chức, nhân dân Việt – Hoa – Khơ me cùng tham gia).
Đêm ngày 16 tháng 6 năm 1868, Nguyễn Trung Trực dẫn quân từ Tà Niên (nay là xã Vĩnh Hòa Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang) đi đánh úp đồn Kiên Giang (Rạch Giá) do trung úy Sauterne chỉ huy. Kết thúc trận đánh, nghĩa quân chiếm được đồn, tiêu diệt 5 viên sĩ quan Pháp, 67 lính, thu được nhiều vũ khí, đạn dược, làm chủ Rạch Giá. Đây là lần đầu tiên lực lượng nghĩa quân đánh đối phương ngay tại trung tâm đầu não của tỉnh. Ngày 21 tháng 6 năm 1868, Pháp phản công, Nguyễn Trung Trực đành phải lui quân về Hòn Chông, rồi ra đảo Phú Quốc lập căn cứ tại Cửa Cạn nhằm chống Pháp lâu dài.
Tháng 9 năm 1868, Nguyễn Trung Trực bị thực dân Pháp bắt ở Phú Quốc rồi bị đem về Sài Gòn, chúng dụ dỗ ông đầu hàng nhưng vô hiệu. Ngày 27 tháng 10 năm 1868, thực dân Pháp đưa Nguyễn Trung Trực về Rạch Giá và xử tử ông tại dây. Trước khi chết Nguyễn Trung Trực đã dõng dạc nói với quân Pháp “Bao giờ nước Nam hết cỏ, thì mới hết người Nam đánh Tây”.
Bằng những sự kiện lịch sử của phong trào kháng chiến chống Pháp của
nhân dân ta từ 1858 đến cuối thế kỉ XIX, em hãy chứng minh câu nói của
Nguyễn Trung Trực “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết
người Nam đánh Tây”.
Khi bị Pháp bắt và đưa ra chém, Nguyễn Trung Trực khẳng khái nói: “Bao
giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây”
trước khi chết ông đã khẳng định tinh thần quyết tâm đánh Pháp đến cùng
của nhân dân ta. Thực tế lịch sử truyền thống yêu nước của nhân dân ta đã
chứng minh điều đó:
a. Mặt trận Đà Nẵng
– Ngay từ khi liên quân Pháp – Tây Ban Nha nổ súng xâm lược Đà Nẵng,
nhân dân ta đã anh dũng chiến đấu thực hiện “vườn không nhà trống” gây
cho địch nhiều khó khăn. Đốc học Phạm Văn Nghị đã đem 300 quân tình
nguyện từ Bắc vào Kinh đô Huế xin được lên đường giết giặc. Tổng đốc
Nguyễn Tri Phương làm tổng chỉ huy mặt trận Quảng Nam khi Pháp đánh
Đà Nẵng…
b. Mặt trận Gia Định
– Khi Pháp đánh chiếm thành Gia Địnhh các đội nghĩa binh ngày đêm bám
sát, tìm cách bao vây tiêu diệt địch buộc Pháp phải phá hủy thành rút xuống
chiến tàu. Nguyễn Tri Phương làm tổng chỉ huy mặt trận ở Thành Gia
Định…
c. Miền Đông Nam kì
Khi Pháp đánh chiếm Định Tường, Biên Hòa, Vĩnh Long các toán nghĩa
quân của Trương Định, Trần Thiện Chính, Lê Huy chiến đấu rất anh dũng
và lập nhiều chiến công. Nguyễn Trung Trực chỉ huy nghĩa quân đánh
chiềm tàu Ét – pê – răng của giặc trên sông Vàm Cỏ. Sau khi triều đình
Nguyễn kí Hiệp ước Nhâm Tuất (1862), bất chấp lệnh bãi binh của triều
đình phong trào chống Pháp của nhân dân ta vẫn tiếp tục dâng cao tiêu biểu
là cuộc khởi nghĩa của Trương Định (1862-1864). Một số sĩ phu yêu nước
thể hiện thái độ bất hợp tác với Pháp bằng phong trào “tị địa”.
d.Tại Miền Tây Nam kì
– Khi Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây Nam Kì, một số nhà nho tìm đường ra
Bình Thuận nhằm chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài
– Đấu tranh vũ trang như Phan Tôn, Phan Liêm, chỉ huy nghĩa quân của
Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Hữu Huân, khởi nghĩa của Trương Quyền ở
Tây Ninh.
– Đấu tranh của các nho Sĩ như: Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Thông, Phan
Văn Trị đã dùng ngòi bút của mình tố cáo quân cướp nước.
e.Tại mặt trận Bắc Kì
– 100 binh lính dưới sự chỉ huy của viên Chưởng cơ đã chiến đấu anh dũng
và hy sinh đến người cuối cùng.
– Tổng đốc Nguyễn Tri Phương và con trai là Nguyễn Lâm đã anh dũng
chiến đấu bảo vệ thành Hà Nội. Tổng đốc Hoàng Diệu đã tuẫn tiết khi Pháp
đánh Hà Nội lần thứ hai vì không giữ được thành.
– Nhân dân Hà Nội và các tỉnh Bắc kì đã chiến đấu kiên cường, phục kích
tiêu diệt địch làm nên chiến thắng Cầu Giấy 1 và 2 (1873 và 1883).
f.Khi triều đình đầu hàng Pháp
– Phong trào Cần Vương bùng nổ với nhiều cuộc khởi nghĩa: Ba Đình,
Hùng Lĩnh, Hương Khê, Bãi Sậy, phong trào nông dân Yên Thế, phong
trào đấu tranh của đồng bào miền núi và các dân tộc thiếu số
g. Ý nghĩa
– Thể hiện tinh thần yêu nước nồng nàn, ý chí chiến đấu bất khuất của nhân dân ta
– Để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu.