Ví dụ về loài người có khả năng điều chỉnh hướng tiến hóa của mình

Ví dụ về loài người có khả năng điều chỉnh hướng tiến hóa của mình

0 bình luận về “Ví dụ về loài người có khả năng điều chỉnh hướng tiến hóa của mình”

  1. Loài người có thể điều chỉnh hướng tiến hóa của mình: 

    – Loài người có thể thực hiện các nghiên cứu để tiến hành thay đổi cuộc sống, thay đổi bộ gen của mình trong tương lai: ví dụ có rất nhiều nghiên cứu đã được thực hiện, đưa các gen mới vào bộ gen của con người

    – Loài người có thể tiến hành các biện pháp bảo vệ môi trường sống của mình

    – Loài người đề ra các pháp luật, luật lệ để điều chỉnh cuộc sống xã hội 

    Bình luận
  2. Đáp án:

    Trong sinh học, tiến hóa (tiếng Anh: Evolution) là sự thay đổi đặc tính di truyền của một quần thể sinh học qua những thế hệ nối tiếp nhau.[1][2] Những đặc tính này là sự biểu hiện của các gen được truyền từ bố mẹ sang con cái thông qua quá trình sinh sản. Nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt của những đặc tính đó trong quần thể là do kết quả của đột biến, tái tổ hợp di truyền và nguồn gốc các biến dị di truyềnkhác.[3] Hiện tượng tiến hóa xảy ra khi các tác nhân tiến hóa như chọn lọc tự nhiên (bao gồm cả chọc lọc giới tính) và trôi dạt di truyền tác động lên sự đa dạng của những đặc tính này, dẫn đến kết quả là vài đặc tính sẽ trở nên phổ biến hoặc hiếm gặp hơn ở trong quần thể.[4] Chính nhờ quá trình tiến hóa này đã làm nảy sinh sự đa dạng ở mọi mức độ tổ chức sinh học bao gồm loài, các cá thể sinh vật và cả các phân tử như DNA và protein.[5][6]

    Việc hệ thống hóa những luận cứ khoa học cho học thuyết tiến hóa xuất phát từ tác nhân chọn lọc tự nhiên được đề xuất bởi Charles Darwin và Alfred Wallace vào giữa thế kỷ 19 và được ghi chép tỉ mỉ trong cuốn sách “Nguồn gốc các loài” (1859) của Darwin.[7] Hiện tượng tiến hóa bởi tác nhân chọn lọc tự nhiên được chứng minh lần đầu thông qua việc càng cho ra nhiều thế hệ con cháu càng có khả năng một trong số chúng sẽ sống sót. Kết luận này đến từ ba thực tế có thể quan sát được về các sinh vật sống: 1. Đặc tính di truyền của mỗi cá thể sẽ tác động lên hình thái, sinh lý, biểu hiện hành vi của chúng (kiểu hình). 2. Các đặc tính di truyền khác nhau giữa các cá thể, dẫn tới tỉ lệ sinh tồn và sinh sản khác nhau (khả năng thích nghi khác nhau). 3. Những sự khác biệt về các đặc tính có thể truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác (thích nghi về mặt di truyền).

    Và như vậy số lượng cá thể con sinh ra sẽ nhiều hơn số cá thể có thể sống sót bởi vì những cá thể mang đặc điểm không phù hợp với điều kiện sống khắc nghiệt sẽ có ít cơ hội sống sót và sinh sản nên các đặc điểm của chúng sẽ không được di truyền cho thế hệ sau, trong khi những cá thể có đặc điểm phù hợp sẽ có tỷ lệ sống sót và sinh sản cao hơn, các đặc điểm của chúng sẽ được di truyền cho thế hệ sau. Kết quả là, các thế hệ hậu duệ của chủng loài đó có thể thích nghi tốt hơn để tồn tại và sinh sôi trong môi trường mà sự chọn lọc tự nhiên diễn ra. Quá trình này tạo ra và bảo tồn những cá thể mang đặc điểm phù hợp cho sự sinh tồn trước điều kiện sống khắc nghiệt, cũng như loại bỏ những cá thể mang đặc điểm không phù hợp.[8] Do đó, các cá thể của quần thể qua các thế hệ nối tiếp nhau sẽ dần bị thay thế bởi con cháu được sinh ra bởi các bố mẹ mang những đặc điểm đã giúp chúng có thể sống sót và sinh sản trong từng môi trường riêng biệt của chúng. Vào đầu thế kỷ 20, những ý tưởng khác về tiến hóa như đột biến luận (mutationism) hay tiến hóa hướng luận (orthogenesis) đều bị bác bỏ bởi thuyết tiến hóa tổng hợp hiện đại. Đây là học thuyết tổng hợp các lý thuyết khoa học hợp lý nhất đương thời từ di truyền học cổ điển, học thuyết chọn lọc tự nhiên, di truyền học Mendel và nhất là di truyền học quần thể.[9]

    Tất cả sự sống trên Trái Đất có cùng một tổ tiên chung (LUCA)[10][11][12] sống cách nay khoảng 3,5 – 3,8 tỷ năm.[13] Các báo cáo hóa thạch bao gồm sự phát triển từ các vật chất sinh học than chì sớm,[14]tới các hóa thạch thuộc lớp thảm vi sinh vật,[15][16][17] tới hóa thạch của các sinh vật đa bào. Các mô hình sinh học đa dạng hiện tại đã được định hình bởi sự lặp đi lặp lại của việc hình thành các loài mới (speciation), sự thay đổi trong loài (anagenesis) và sự mất mát của các loài (tuyệt chủng) trong suốt lịch sử tiến hóa của sự sống trên Trái Đất.[18] Đặc điểm hình thái và tính chất sinh hóa có những nét tương đồng này giống nhau hơn giữa những loài có tổ tiên chung gũi nhau hơn và có thể được sử dụng để dựng lại cây phát sinh chủng loại.[19][20]

    Các nhà sinh học tiến hóa đã tiếp tục nghiên cứu các khía cạnh khác nhau của tiến hóa bằng cách đưa ra và kiểm tra các giả thuyết cũng như xây dựng các lý thuyết dựa trên bằng chứng từ lĩnh vực hoặc phòng thí nghiệm và dữ liệu được tìm ra bởi các phương pháp toán sinh học. Những khám phá của họ đã ảnh hưởng không chỉ đến sự phát triển của sinh học mà còn nhiều lĩnh vực khoa học và công nghiệp khác, bao gồm nông nghiệp, y học và khoa học máy tính.[21]

     

    Giải thích các bước giải:

     

    Bình luận

Viết một bình luận