Vì sao Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong Đảng?
0 bình luận về “Vì sao Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong Đảng?”
Tự phê bình và phê bình theo tư tưởng Hồ Chí Minh – Ý nghĩa định hướng cho công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
Tự phê bình và phê bình là vũ khí sắc bén trong xây dựng và chỉnh đốn đảng vô sản theo chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Vấn đề này luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập trong các bài nói, bài viết của Người dành cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, để xây dựng Đảng ta “là đạo đức, là văn minh”, xứng đáng với truyền thống vẻ vang của Đảng và sự tin yêu của nhân dân. Nghiên cứu, học tập những tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình giúp đội ngũ cán bộ, đảng viên hiểu rõ hơn tư tưởng, đạo đức, tác phong của Người, góp phần tu dưỡng đạo đức người đảng viên; thực hiện tốt hơn công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Đảng uỷ Cục Kỹ thuật, Quân khu 2 kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khoá XII
Tự phê bình và phê bình: Vấn đề luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập trong mọi giai đoạn cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng
Qua những bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay từ những ngày đầu thành lập chính quyền nhân dân sau Cách mạng Tháng Tám 1945, qua 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp cho đến những năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ, đều thể hiện rõ ý thức nghiêm khắc tự phê bình bản thân, cũng như chân thành phê bình những lỗi lầm của đội ngũ cán bộ, đảng viên, đồng bào, biến tự phê bình và phê bình thành phong trào rộng khắp, mong mọi người cùng tiến bộ, để đóng góp nhiều hơn cho sự nghiệp chung của dân tộc.
Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, trong bài viết có tiêu đề Cách tổ chức các ủy ban nhân dân, đăng trên Báo Cứu quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trước ngày khai hội của Ủy ban, ai có điều gì đề nghị, chất vấn hay phê bình cứ gửi cho Chủ tịch” (1). Cũng trên Báo Cứu quốc, bài viết của Người với đầu đề Muốn thành cán bộ tốt, phải có tinh thần tự chỉ trích có đoạn: “Sau mỗi ngày làm việc, cần phải tự mình kiểm điểm… Không chịu tự phê bình, tự chỉ trích thì không bao giờ tấn tới được”(2). Ngày 20-11-1946, trong Thông lệnh Tìm người tài đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh đăng trên Báo Cứu quốc có đoạn: “Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài có đức. E vì Chính phủ nghe không đến, thấy không khắp, đến nỗi những bực tài đức không thể xuất thân. Khuyết điểm đó tôi xin thừa nhận. Nay muốn sửa điều đó, và trọng dụng những kẻ hiền năng, các địa phương phải lập tức điều tra nơi nào có người tài đức, có thể làm được những việc ích nước lợi dân, thì phải báo cáo ngay cho Chính phủ biết. Báo cáo phải nói rõ: tên tuổi, nghề nghiệp, tài năng, nguyện vọng và chỗ ở của người đó. Hạn trong một tháng, các cơ quan địa phương phải báo cáo cho đủ”(3).
Qua những bài báo nói trên, có thể thấy rõ cách tổ chức chính quyền cách mạng nhân dân, yêu cầu về thái độ làm việc của nhân viên chính quyền trước quốc dân, đồng bào; cũng như cách thức để người công chức tự đào tạo, nâng cao trình độ bản thân qua thực tế công việc chính là tự phê bình, qua đó rút kinh nghiệm để trưởng thành hơn. Đặc biệt, qua Thông lệnh Tìm người tài đức, cũng như qua bài báo với nhan đề Tự phê bình, đăng trên Báo Cứu quốc ngày 28-1-1946, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh tự nhận lỗi có đoạn: “Những sự thành công là nhờ đồng bào cố gắng. Những khuyết điểm kể trên là lỗi tại tôi”(4); qua đây, chúng ta có thể thấy rõ tinh thần tự phê bình nghiêm khắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi Người đứng ra nhận lỗi cao nhất với tư cách người đứng đầu Chính phủ trước quốc dân, đồng bào; đồng thời, khẳng định quyết tâm sửa chữa khi chỉ rõ nội dung yêu cầu cần thực hiện, các cơ quan chịu trách nhiệm thực hiện cũng như thời hạn phải hoàn thành. Đây có thể coi như mẫu mực của sự tự phê bình cách mạng, không hề chung chung, qua loa, đối phó, mà đầy tinh thần trách nhiệm cũng như quyết tâm sửa chữa lỗi lầm.
Thể hiện tập trung nhất, đầy đủ nhất những nội dung về tự phê bình và phê bình theo tư tưởng Hồ Chí Minh chính là tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, được Người viết tháng 10-1947. Khi nói về vai trò của tự phê bình và phê bình, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Luôn luôn dùng và khéo dùng cách phê bình và tự phê bình, thì khuyết điểm nhất định hết dần, ưu điểm nhất định thêm lên và Đảng ta nhất định thắng lợi”(5). Người khẳng định: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình,… là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn…”(6); “PHẢI RÈN LUYỆN TÍNH ĐẢNG”, “phải ráo riết dùng phê bình và tự phê bình… Có như thế Đảng mới chóng phát triển”(7).
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ mục đích của tự phê bình và phê bình với người cách mạng là: “Giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ… Cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ”(8). Người cách mạng khi thực hiện tự phê bình và phê bình “chớ dùng những lời mỉa mai, chua cay, đâm thọc. Phê bình việc làm, chứ không phải phê bình người”(9), “phải tự phê bình ráo riết, và lấy lòng thân ái, lấy lòng thành thật, mà ráo riết phê bình đồng chí mình. Hai việc đó phải đi đôi với nhau”(10), “Lúc phê bình họ, ta chớ có thái độ gay gắt. Lúc khen ngợi họ, ta phải cho họ hiểu rằng: năng lực của mỗi người đều có giới hạn, tuy có thành công cũng chớ kiêu ngạo. Kiêu ngạo là bước đầu của thất bại”(11).
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ ra những khuyết điểm hay gặp phải trong tự phê bình và phê bình, đó là “Việc gì không phê bình trước mặt để nói sau lưng… Không bao giờ đề nghị gì với Đảng”, “Khi phê bình ai, không phải vì Đảng, không phải vì tiến bộ, không phải vì công việc, mà chỉ vì công kích cá nhân, cãi bướng, trả thù, tiểu khí”, “sợ mất oai tín và thể diện mình, không dám tự phê bình”(12)…
Đặc biệt, Người chỉ rõ những sai lầm về động cơ và thái độ cũng như nhận thức chính trị của một số cá nhân khi thực hiện tự phê bình và phê bình: “Lợi dụng những sai lầm và khuyết điểm… để đạt mục đích tự tư tự lợi… Đó là thái độ của đảng viên và cán bộ đầu cơ”, “Không phê bình, không tự phê bình. Đó là thái độ của những đảng viên và cán bộ ươn hèn, yếu ớt”, “đối với những người có khuyết điểm và sai lầm đó, như đối với hổ mang, thuồng luồng… đòi phải đuổi bọn kia ra khỏi Đảng ngay. Nếu Đảng không làm như thế… họ đâm ra chán nản, thất vọng… Thậm chí họ bỏ Đảng. Đó là thái độ của những người máy móc quá. Đó cũng là bệnh “chủ quan”, “phạm cái khuyết điểm hẹp hòi”(13).
Thái độ và phương pháp đúng đắn trong tự phê bình và phê bình của người cán bộ, đảng viên được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Phân tách rõ ràng, cái gì đúng, cái gì là sai”; muốn vậy phải “Ra sức học tập và nâng cao những kiểu mẫu tốt”; “ra sức tranh đấu sửa chữa những khuyết điểm, không để nó phát triển ra, không để nó có hại cho Đảng”; ‘khéo dùng cách phê bình và tự phê bình để giúp đồng chí khác sửa đổi những sai lầm và khuyết điểm, giúp họ tiến bộ”; “Đoàn kết Đảng bằng sự tranh đấu nội bộ. Nâng cao kỷ luật và uy tín của Đảng”(14)…
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ đặc điểm cơ bản trong nhận thức do vị trícông tác quyết định, dẫn đến ứng xử khác nhau trong khi thực hiện tự phê bình và phê bình của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân; từ đó Người hướng dẫn phương pháp thích hợp cho từng đối tượng để thực hiện tự phê bình và phê bình một cách có kết quả: “Những người lãnh đạo chỉ trông thấy một mặt của công việc, của sự thay đổi của mọi người: trông từ trên xuống. Vì vậy sự trông thấy có giới hạn”, họ cần phải “có mối liên hệ chặt chẽ giữa mình với các tầng lớp người, với dân chúng”(15), điều này giúp cho việc phê bình nói riêng, việc đưa ra những quyết định nói chung của những người giữ cương vị lãnh đạo không phạm phải sai lầm chủ quan, duy ý chí, không sa vào chủ nghĩa biệt lập, khép kín, cả với hoạt động tự phê bình và phê bình.
Với quần chúng nhân dân, Người chỉ rõ, do “đặc điểm rõ nhất trong tư tưởng của dân chúng là họ hay so sánh… Do sự so sánh, họ thấy chỗ khác nhau, họ thấy mối mâu thuẫn. Rồi lại do đó, họ kết luận, họ đề ra cách giải quyết”… “Vì vậy, để cho dân chúng phê bình cán bộ… nhất định không xảy ra việc thiên tư, thiên vị, nhất định hợp lý và công bằng”(16). Để quần chúng nhân dân phê bình cán bộ có kết quả, chất lượng, thực sự góp phần vào xây dựng, chỉnh đốn Đảng, cần phải bảo đảm các điều kiện như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Với nhân dân, “Trước ngày khai hội của Ủy ban, ai có điều gì đề nghị, chất vấn hay phê bình cứ gửi cho Chủ tịch”; với cán bộ, “sau mỗi ngày làm việc, cần phải tự mình kiểm điểm”; đồng thời, mỗi chủ trương, chính sách, quyết định của chính quyền cần đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng để mọi người đều nắm được và cùng quyết tâm thực hiện.
Trong quá trình lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết nhiều bài báo đề cập trực tiếp đến nội dung tự phê bình và phê bình, như bài Rút kinh nghiệm, trao đổi kinh nghiệm, bài Tự phê bình. Ngày 12-7-1951, Người có bài Phê bình, trong đó chỉ rõ: “Nguyên tắc phê bình là phải nhằm vào tư tưởng và công tác. Tư tưởng không đúng đắn thì công tác ắt sai lầm… Phải vạch rõ vì sao có khuyết điểm ấy, nó sẽ có kết quả xấu thế nào, dùng phương pháp gì để sửa chữa… Không phê bình là bỏ mất một quyền dân chủ của mình… Dìm phê bình hoặc phớt phê bình là khinh rẻ ý kiến nhân dân, là trái với dân chủ”(17). Ngày 14-2-1952, Báo Nhân Dân đăng bài báo Tự phê bình và phê bình của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đề ra các nội dung thực hiện tự phê bình và phê bình, gồm: Mục đích, Phương hướng, Trọng tâm, Cách làm. Trong đó, Cách làm bắt đầu từ Thống nhất tư tưởng, Nghiên cứu các tài liệu hướng dẫn, Kiểm thảo công việc, Tiến hành từ trên xuống, Dưới sự lãnh đạo tập trung. Người cũng chỉ rõ các khuyết điểm hay gặp phải trong thực hiện tự phê bình và phê bình là chưa biết tập trung vào những vấn đề trọng tâm; vạch khuyết điểm nhiều, nêu ưu điểm ít; không có biện pháp sửa chữa khuyết điểm, không biểu dương nhân rộng ưu điểm.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, miền Bắc bước vào công cuộc khắc phục hậu quả chiến tranh, từng bước xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của chế độ xã hội chủ nghĩa, chi viện cho miền Nam phục vụ mục tiêu chung thống nhất đất nước. Trong bối cảnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục viết những bài báo về tự phê bình và phê bình để nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, xây dựng Đảng về tư tưởng, chính trị và đạo đức. Ngày 14-6-1955, Người có bài báo Tự phê bình và phê bình, đăng trên Báo Nhân Dân. Cũng trên Báo Nhân Dân, ngày 4-7-1955, Người có bài viết Có phê bình phải có tự phê bình; ngày 26-7-1956, có bài Tự phê bình, phê bình, sửa chữa; ngày 21-8-1956, có bài Phải xem trọng ý kiến của quần chúng.
Tự phê bình và phê bình trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh – kết tinh tư tưởng của Người về vũ khí sắc bén xây dựng, chỉnh đốn Đảng
Trong bản Di chúc hoàn thành ngày 15-5-1965, sau những lời nhắn nhủ chân tình với các đồng chí, đồng bào, lời đầu tiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về Đảng. Để sự nghiệp cách mạng của dân tộc đạt được những thắng lợi vô cùng vẻ vang, theo Người, nguyên nhân cơ bản là Đảng đã phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc; trong Đảng cũng xây dựng tình đoàn kết đồng chí gương mẫu của những người cộng sản, quyết hiến dâng tinh thần và sức lực cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Tinh thần đoàn kết đó được Chủ tịch Hồ Chí Minh ví như con ngươi của mắt, có vai trò quan trọng trong nhận thức thế giới xung quanh của mỗi con người, có ý nghĩa lớn lao nhất cho sự hình thành và làm nên mỗi con người trong xã hội. Vì thế, đoàn kết có ý nghĩa quan trọng bậc nhất đối với giai cấp vô sản và những người lao động trong cuộc đấu tranh chống áp bức, cường quyền, xây dựng xã hội hòa bình, tươi đẹp. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, để củng cố và phát triển sự đoàn kết thống nhất của Đảng, “cần thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình”, bởi theo Người đó “là cách tốt nhất”(18).
Trước đó, ngày 2-1-1965, Bộ Chính trị có Chỉ thị số 88-CT/TW, Về cuộc vận động chỉnh huấn mùa xuân năm 1965. Chỉ thị chỉ rõ: “Trong cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ trung cấp và cao cấp, bên cạnh tư tưởng hữu khuynh và ảnh hưởng của chủ nghĩa xét lại chưa được khắc phục một cách triệt để, hãy còn nhiều biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân… Tình hình ấy đã làm tổn thương đến tính chất tiền phong và gương mẫu của đảng viên, gây ảnh hưởng xấu trong Đảng, trong nhân dân và thiệt hại lớn cho sự nghiệp cách mạng, cần phải kiên quyết khắc phục”(19). Chỉ thị yêu cầu: “Các đảng viên giữ cương vị lãnh đạo phải gương mẫu trong việc phê bình và tự phê bình, nhất là tự phê bình”(20). Như vậy, sự quan tâm thường xuyên của Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được quán triệt, thể hiện rõ trong văn bản chỉ đạo của Đảng; từ đó, trở thành nhiệm vụ chính trị thường xuyên của tổ chức đảng các cấp, để góp phần gột rửa những tư tưởng lạc hậu, không xứng đáng với vai trò tiền phong, gương mẫu của người đảng viên và làm ảnh hưởng đến sức mạnh của Đảng trong lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Trong bản Di chúc viết tháng 5-1968, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân”(21). Qua các bản Di chúc viết từ năm 1965 đến khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời có thể thấy, vấn đề xây dựng, chỉnh đốn Đảng luôn là mối quan tâm hàng đầu, bởi có thế Đảng mới xứng đáng với sự tin yêu của nhân dân, mới gánh vác được trọng trách mà dân tộc giao phó, và bởi vì Đảng ta là Đảng cầm quyền, như lời khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc. Để Đảng có sức mạnh tuyệt đối dẫn dắt dân tộc qua mọi thử thách, cần phải giữ vững tinh thần đoàn kết trong Đảng, giữa nhân dân với Đảng. Muốn vậy, cần thực hành dân chủ, giữ vững đạo đức đảng viên, bằng cách thực hiện thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình – vũ khí hiệu quả và sắc bén chống lại mọi biểu hiện vi phạm đạo đức đảng viên cũng như sự chia rẽ trong Đảng.
Những nội dung về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập trong Di chúc, đều đã được Người nhiều lần nêu lên một cách cụ thể và chi tiết trong các tác phẩm ở những thời điểm khác nhau của cách mạng. Những tư tưởng đó phản ánh rõ nét quá trình hình thành, sự cụ thể hóa và được Người trình bày một cách hệ thống, để cuối cùng được nêu lên một cách cô đọng, tập trung nhất trong Di chúc.
Phát huy mạnh mẽ vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị – xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền_Nguồn: thanhuytphcm.vn
Phát huy tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình trong xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay
Quán triệt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình trong xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay, cần tập trung thực hiện có hiệu quả một số nội dung:
Thứ nhất, tự phê bình và phê bình cần thực hiện thường xuyên, liên tục. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, công tác tự phê bình và phê bình cần thực hiện thường xuyên, nghiêm chỉnh, sau mỗi công việc, sau mỗi ngày làm việc, mỗi người cần nghiêm túc rút kinh nghiệm để thấy rõ những lỗi lầm mắc phải, từ đó tránh lặp lại trong những công việc về sau. Bởi vì tự phê bình và phê bình là nhằm vào công việc, tức kết quả cuối cùng sau khi hoàn thành công việc và thái độ thực hiện công việc, nên nếu sau khi hoàn thành nhiệm vụ không nghiêm túc kiểm điểm rút kinh nghiệm, chỉ rõ ưu, khuyết điểm thì sẽ khó tránh khỏi chủ quan, kiêu ngạo, hoặc lặp lại sai lầm trong công tác về sau, cũng như không nhân rộng, phát huy được những ưu điểm, từ đó bỏ sót những nhân tố có ích cho phong trào chung.
Thực tế thời gian qua đã minh chứng rõ điều này, khi hoạt động tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng, việc phát động và tổ chức nhân dân góp ý xây dựng và chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa làm chưa nghiêm túc, dẫn đến những sai lầm từ nhỏ nhưng không được phê phán, ngăn chặn, đẩy lùi, đã trở thành những sai phạm lớn, nghiêm trọng. Điều này đã được Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Trong tự phê bình và phê bình, tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm vẫn còn khá phổ biến, một số cán bộ, đảng viên chưa tự giác nhìn nhận đúng mức khuyết điểm và trách nhiệm của mình trong công việc được giao phụ trách”(22).
Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng đến nay, nhiều vụ án tham nhũng lớn đã được đưa ra điều tra, truy tố, xét xử; mặc dù thể hiện quyết tâm của Đảng, tính nghiêm minh của pháp luật, nhưng đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín của Đảng. Trong đó, có nhiều vụ án, dù được cán bộ, quần chúng ở cơ sở, đơn vị sớm phát hiện, đấu tranh với đương sự và những người có liên quan nhưng không có kết quả; gửi đơn, thư tố cáo cũng “biệt vô âm tín”, thậm chí còn bị dọa dẫm, trù dập. Do đó, để phát huy tốt vai trò của tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng thường kỳ, vai trò lãnh đạo và trách nhiệm đầu tiên chính là của người đứng đầu cấp ủy và tập thể cấp ủy cơ quan, địa phương, đơn vị. Ở đây, cần quán triệt chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Muốn tự phê bình và phê bình có kết quả, cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cao cấp phải làm gương trước”, gắn với việc thực hiện tốt Quy định số 08-Qđi/TW, ngày 25-10-2018, của Ban Chấp hành Trung ương, về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”.
Thứ hai, tự phê bình và phê bình cần thực hiện một cách thiết thực, hiệu quả. Thiết thực, hiệu quả chính là tự phê bình và phê bình có nội dung cụ thể, gắn với công việc cụ thể được phân công, cương vị được đảm nhiệm; tránh tự phê bình và phê bình một cách chung chung, chỉ dựa trên những căn cứ trừu tượng, mà phải dựa trên lời nói và việc làm cụ thể của từng cá nhân.
Trong tự phê bình và phê bình về việc làm của cá nhân, cần tập trung chú trọng đánh giá về việc làm trên những nội dung cụ thể, như kế hoạch thực hiện, biện pháp cụ thể, quyết tâm khắc phục khó khăn, trở ngại để hoàn thành công việc. Tự phê bình và phê bình với lời nói của cá nhân có vai trò quan trọng, bởi mỗi cán bộ, đảng viên về nguyên tắc chính là hình mẫu về đạo đức cách mạng, do đó, phát ngôn của họ phải thể hiện sự chuẩn mực, nghiêm túc…; có như vậy, mới làm gương cho quần chúng nhân dân. Nhất là trong thời đại công nghệ thông tin bùng nổ hiện nay, mỗi phát ngôn không chuẩn mực, không đúng lúc, đúng chỗ của người có trách nhiệm dễ gây hậu quả không tốt, phương hại tới uy tín của tổ chức, cơ quan, đơn vị, thậm chí gây ra “cơn bão truyền thông”. Do đó, nếu phát hiện lời nói của một cá nhân thể hiện suy nghĩ chưa đúng đắn, tổ chức đảng phụ trách cá nhân đó và các đảng viên cùng sinh hoạt cần phải góp ý để chấn chỉnh, giúp đỡ, tránh việc cá nhân tiếp tục phát ngôn trái với quan điểm, đường lối của Đảng, qua đó giúp đồng chí mình không vi phạm kỷ luật phát ngôn.
Thứ ba, phát huy mạnh mẽ vai trò của quần chúng nhân dân trong nâng cao hiệu quả tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng nói chung, trong phê bình tổ chức đảng và chính quyền các cấp nói riêng. Người đã chỉ rõ đặc điểm tâm lý của quần chúng nhân dân và kết luận: để cho dân chúng phê bình cán bộ… nhất định không xảy ra việc thiên tư, thiên vị, nhất định hợp lý và công bằng.
Để phát huy mạnh mẽ vai trò của quần chúng nhân dân trong nâng cao hiệu quả tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ, đảng viên, trước hết, cần tổ chức tốt việc thực hiện có hiệu quả Quyết định số 218-QĐ/TW, ngày 12-12-2013, của Bộ Chính trị, về “Ban hành quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị – xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền”. Từ đó, tạo thành phong trào hành động thiết thực để nhân dân góp ý chung về công tác lãnh đạo, điều hành của tổ chức đảng, chính quyền các cấp, để tạo ảnh hưởng lan truyền tới hoạt động tự phê bình và phê bình trong mỗi tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị, địa phương. Bên cạnh đó, cần nghiêm túc, chân thành tiếp thu những ý kiến đóng góp, phê bình của quần chúng nhân dân mọi lúc, mọi nơi, qua các “kênh” tiếp nhận của tổ chức đảng, chính quyền các cấp; coi việc tiếp xúc với nhân dân, nghiêm túc tiếp thu, trả lời ý kiến góp ý, phê bình của quần chúng nhân dân là trách nhiệm chính trị của người đứng đầu tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị, địa phương.
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện. Trải qua hơn 80 năm phấn đấu, xây dựng và trưởng thành, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, với bản lĩnh của một đảng cách mạng chân chính, dạn dày kinh nghiệm, luôn gắn bó máu thịt với nhân dân, Đảng đã lãnh đạo, tổ chức và phát huy sức mạnh to lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, giành được nhiều thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp cách mạng.
Từ khi thực hiện đường lối đổi mới, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư các khóa đã ban hành nhiều chủ trương, nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Trong đó, gần đây nhất là Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI: Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay đang được Ban chấp hành Trung ương Đảng quán triệt và triển khai thực hiện. Nghị quyết đã đánh giá tình hình công tác xây dựng Đảng trong những năm qua và chỉ ra một số nguyên nhân cơ bản đẫn đến những hạn chế, yếu kém. Trong đó nhấn mạnh nguyên nhân: nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình ở nhiều nơi vừa bị buông lỏng trong thực hiện, vừa chưa được quy định cụ thể để làm cơ sở cho công tác kiểm tra, giám sát.
Vấn đề này dã được Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm, nhắc nhở cán bộ, đảng viên. Chính vì vậy, trong di chúc để lại cho Đảng, cho nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Phải giữ gìn đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”(1). Vậy làm thế nào để Đảng ta có được điều đó? Bác đã chỉ ra: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình”(2). Ở Hồ Chí Minh, tự phê bình và phê bình đã trở thành một nguyên tắc không thể thiếu trong phong cách lãnh đạo của Người. Dù ở cương vị lãnh đạo cao nhất, Người vẫn thực hành tự phê bình và phê bình một cách nghiêm túc, nêu tấm gương sáng về đức tính trung thực, thẳng thắn, về thái độ và phương pháp phê bình cho cán bộ, đảng viên noi theo.
Từ một quan niệm hết sức giản dị nhưng bao hàm tính triết lý và biện chứng sâu sắc: người đời không phải là thần thánh, không ai tránh khỏi khuyết điểm, Bác chỉ ra rằng: “Tổ chức đảng cũng vậy, Đảng không phải trên trời rơi xuống, “Đảng là người, nên có sai lầm”, tức là cũng có lúc khoẻ mạnh, lúc ốm đau, bệnh tật. Đó là lẽ thường tình, không vì thấy ốm đau mà phát sinh tư tưởng lo sợ, bi quan, tuyệt vọng, giấu giếm bệnh tật trong mình”(2). Do đó, theo Bác có bệnh thì phải mạnh dạn, chủ động, khẩn trương, kiên trì chạy chữa. Hồ Chí Minh chỉ ra liều “thần dược” để chữa trị các chứng bệnh trong cơ thể của tổ chức Đảng và mỗi cá nhân đảng viên là tự phê bình và phê bình: “Tự phê bình là phương thuốc trị bệnh cứu mình, phê bình là phương thuốc trị bệnh cứu người”. Người nói: “Phê bình cũng như uống thuốc. Sợ phê bình cũng như có bệnh mà giấu bệnh, không dám uống thuốc, để đến nỗi bệnh càng nặng, không chết cũng “la lết quả dưa”(2).
Bác yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên “mỗi ngày phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt”. Đảng cách mạng cần tự phê bình và phê bình như con người cần không khí, không có không khí con người sẽ chết, không có tự phê bình và phê bình Đảng khó lòng mà tồn tại. Chủ tich Hồ Chí Minh khẳng định: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”. Đảng cần phải biết những ưu điểm và khuyết điểm của mình “để dạy dỗ đảng viên, dạy dỗ quần chúng”(2).
Tự phê bình và phê bình là thứ vũ khí sắc bén nhất giúp Đảng ta ngày càng thêm mạnh, ngày càng phát triển, càng nâng cao hơn nữa năng lực và sức chiến đấu của Đảng. Tự phê bình và phê bình giúp ta sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm, tiến bộ không ngừng. Bởi vậy, theo Bác, trong Đảng muốn đoàn kết chặt chẽ, “ắt phải thống nhất tư tưởng, mở rộng dân chủ nội bộ, mở rộng tự phê bình và phê bình”. Có thực hành dân chủ rộng rãi thì tự phê bình và phê bình mới trở thành nền nếp thường xuyên trong sinh hoạt Đảng. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (năm 1947), Bác viết: “Nếu cách lãnh đạo của ta không được dân chủ thì đối với cơ quan lãnh đạo, đối với những người lãnh đạo, các đảng viên và cán bộ dù có ý kiến cũng không dám nói, dù muốn phê bình cũng sợ không dám phê bình”.
Tự phê bình và phê bình là nhu cầu nội tại của tổ chức Đảng và đảng viên. Song sử dụng nó phải đúng mục đích thì mới có tác dụng, hiệu quả cao. Nếu sử dụng không đúng mục đích thì dù đó là vũ khí sắc bén cũng không tiêu diệt được kẻ thù, là “thần dược” cũng không trị được bệnh. Chủ tịch Hồ Chí Minh giải thích: “Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ. Vì vậy phê bình mình cũng như phê bình người phải vạch rõ cả ưu điểm và khuyết điểm. Phê bình việc làm chứ không phải phê bình người”. Do đó, tự phê bình và phê bình tức là gột rửa những thói hư tật xấu, những cái nhơ bẩn lây bám, xâm nhập vào con người chứ không phải cắt bỏ thân thể con người. Tư tưởng nhân văn, đề cao yếu tố con người của Hồ Chí Minh ở đây thật bao la, sâu sắc và chan chứa tình người. Bác Hồ đã từng phê phán: “Ai hợp với mình thì người xấu cũng cho là tốt, việc dở cũng cho là hay, rồi che đậy cho nhau, ủng hộ lẫn nhau. Ai không hợp với mình thì người tốt cũng cho là xấu, việc hay cũng cho là dở, rồi tìm cách dèm pha, nói xấu, tìm cách dìm người đó xuống. Bệnh này rất tai hại cho Đảng, nó làm hại đến sự thống nhất”.
Từ quan điểm xuất phát thể hiện tính dân chủ và nhân đạo cao cả, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra phương pháp, hình thức và những yêu cầu để tiến hành tự phê bình và phê bình đạt hiệu quả cao nhất:
Trước hết, phê bình phải đi đôi với tự phê bình và phê bình phải gắn liền với sửa chữa, với biểu dương khen thưởng. Nếu chỉ phê bình người khác mà không tự phê bình thì chẳng khác nào “thầy thuốc chỉ đi chữa bệnh người khác mà bệnh nặng trong mình thì quên chữa”. Tại buổi Lễ bế mạc lớp Bổ túc trung cấp (10/1947), Hồ Chí Minh đã nói: “Tự phê bình rồi lại phải phê bình người khác nữa… Nếu tôi có vết nhọ trên trán, các đồng chí trông thấy, lại lấy cớ “nể Cụ” không nói, là tôi mang nhọ mãi. Nhọ ở trên trán thì không quan trọng, nhưng nếu có vết nhọ ở trong óc, ở tinh thần, mà không nói cho người ta sửa tức là hại người…Thấy cái xấu của người mà không phê bình là một khuyết điểm rất to. Không phê bình, tức là để cho cái xấu của người ta phát triển”.
Tự phê bình và phê bình phải gắn với sửa chữa, tức là phải chỉ rõ ưu, khuyết điểm và phương hướng để phát huy hoặc khắc phục. Đồng thời phải gắn với động viên, khen thưởng, xử phạt rõ ràng.
Thứ hai, tự phê bình và phê bình phải đạt tới cái đích là làm rõ đúng, bảo đảm tính khách quan, trung thực, thẳng thắn và chân tình. Tự phê bình cũng như phê bình phải trung thực, không nể nang, không thêm bớt. Bác nhắc nhở: “Phê bình phải nghiêm chỉnh, chắc chắn, phụ trách, nói có sách, mách có chứng. Phải phê bình với tinh thần thành khẩn, xây dựng, “trị bệnh cứu người”, chớ phê bình lung tung không chịu trách nhiệm. Khi phê bình, chớ dùng những lời mỉa mai, chua cay, đâm thọc. Trong lúc phê bình, khuyết điểm phải vạch rõ ràng, mà ưu điểm cũng phải nhắc đến. Một mặt là để sửa chữa cho nhau. Một mặt là để khuyến khích nhau, bắt chước nhau”.
Thứ ba, Khi tiến hành tự phê bình và phê bình phải bảo đảm tính dân chủ, công khai. Công khai phân tích, nhận xét, đánh giá ưu, khuyết điểm của mình, đồng chí mình và tổ chức đảng trước hội nghị, phê phán nghiêm khắc tình trạng “ngồi lê đôi mách”, “việc gì cũng không phê bình trước mặt mà để nói sau lưng”. Bác cho rằng: ” Kiểu phê bình như vậy là biểu hiện của bệnh “cá nhân””.
Tự phê bình và phê bình muốn đạt kết quả cao thì phải được tiến hành trong bầu không khí thật dân chủ, bình đẳng. Chỉ có dân chủ rộng rãi thì mọi cán bộ, đảng viên, nhân dân mới tích cực, chủ động, nói thẳng, nói thật. Song mở rộng dân chủ trong tự phê bình và phê bình không có nghĩa là muốn nói gì thì nói, muốn phê thì phê. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì một cuộc tự phê bình và phê bình nghiêm túc là: “Trong lúc thảo luận, mọi người được tự do hoàn toàn phát biểu ý kiến , dù đúng hoặc không đúng cũng vậy. Song không được nói gàn, nói vòng quanh”. ở đây, vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt rất quan trọng, như Bác đã dạy: cán bộ cao cấp phải gương mẫu tự phê bình và phê bình trước.
Thứ tư, tự phê bình và phê bình phải được tiến hành thường xuyên, phê bình từ trên xuống và từ dưới lên, nhất là từ dưới lên, có như vậy mới đạt hiệu quả cao. Bởi vì, nếu chỉ phê bình một chiều thì như Bác so sánh cũng giống như người “đi một chân, không thể đi được”.
Khi tiến hành tự phê bình và phê bình phải đảm bảo đúng nguyên tắc, song cách thức tiến hành phải mềm dẻo, khéo léo. Nếu chỉ dùng phương pháp cứng rắn, mệnh lệnh, ép buộc thì rất khó tiếp thu. Phê bình không đúng lúc, đúng chỗ, không khôn khéo sẽ có tác dụng ngược lại thậm chí còn gây ra hậu quả khó lường bởi lẽ lời chê như một mồi lửa, lòng tự ái, kiêu căng của con người giống như một kho thuốc súng. Ngày xưa,Trang Tử cũng đã từng nói: Người chê ta phải là thầy ta, người khen ta phải là bạn ta, người nịnh hót ta là kẻ thù của ta.
Thứ năm, người và tổ chức được phê bình phải có thái độ thành khẩn, vui lòng để sửa đổi, không nên vì bị phê bình mà nản chí hoặc oán ghét. Hết sức tránh thái độ “giấu bệnh sợ thuốc”, bị phê bình thì im lặng, không tìm cách sửa đổi. Hồ Chí Minh gọi đó là “thái độ không thật thà, không đúng đắn” và thái độ đó sẽ dẫn đến hậu quả hết sức nghiêm trọng, bệnh ngày càng nặng thêm, thậm chí nguy hiểm đến tính mạng.
Trong bất kỳ một tổ chức đảng nào, cho dù là tổ chức đảng cấp trên hay tổ chức đảng cấp dưới, bất kỳ một cá nhân đảng viên ở cương vị nào nếu không thấm nhuần tư tưởng tự phê bình và phê bình của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì cũng sẽ phạm phải những sai lầm lớn. Thực tế hiện nay, một số tổ chức đảng và đảng viên đã làm tốt công tác tự phê bình và phê bình, trong các cuộc họp đã dám nói thẳng, nói thật ưu, khuyết điểm giúp tổ chức đảng và đồng chí mình phát huy, sửa chữa. Song bên cạnh đó, vẫn còn một số tổ chức đảng chưa phát huy tốt tinh thần phê và tự phê. Trong các cuộc hội nghị, cán bộ, đảng viên không dám góp ý kiến, đặc biệt là góp ý cho cấp trên, cho lãnh đạo vì sợ bị trù dập, không được thăng chức, nâng lương… Một số tổ chức đảng và đảng viên không góp ý cho tổ chức, cho đồng chí mình ngay trong cuộc họp mà lại đi nói sau lưng có tính chất “kích động”, làm mất uy tín người khác. Bên cạnh đó vẫn còn một số cán bộ, đảng viên lợi dụng tinh thần phê và tự phê để chỉ trích, phê phán người khác với thái độ không thiện cảm, vì mục đích cá nhân “vạch lá tìm sâu”, “chuyện bé xé ra to”, làm cho người bị phê bình không nhận ra được sai lầm để sửa hoặc có nhận ra họ cũng khó lòng mà sửa được. Bởi vậy, chúng ta học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh phải bằng hành động thực tế, không nên hô hào, chỉ nói mà không làm hoặc nói nhiều làm ít.
Tự phê bình và phê bình là biện pháp quan trọng nâng cao trí tuệ, phát hiện và giải quyết những mâu thuẫn trong Đảng, là quy luật sinh tồn và phát triển của Đảng. Tự phê bình và phê bình đòi hỏi phải có tính Đảng và tính nguyên tắc cao, phải đảm bảo tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, tăng cường được mối quan hệ chặt chẽ giữa đảng và quần chúng. Chủ tich Hồ Chí Minh đã tiếp thu, nghiên cứu, vận dụng và bổ sung sáng tạo quan điểm của Mác, Ăngghen, Lênin về vấn đề tự phê bình và phê bình một cách hết sức cụ thể và độc đáo. Chính vì vậy, Đảng ta đã lãnh đạo cách mạng nước ta đi đến thành công, xứng đáng và làm tròn vai trò lãnh tụ chính trị của giai cấp và của dân tộc. Ngày nay, khi toàn Đảng đang quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về một số vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng, chúng ta càng thấm nhuần hơn tư tưởng tự phê bình và phê bình của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Điều này sẽ giúp chúng ta thực hiện thà
Tự phê bình và phê bình theo tư tưởng Hồ Chí Minh – Ý nghĩa định hướng cho công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
Tự phê bình và phê bình là vũ khí sắc bén trong xây dựng và chỉnh đốn đảng vô sản theo chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Vấn đề này luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập trong các bài nói, bài viết của Người dành cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, để xây dựng Đảng ta “là đạo đức, là văn minh”, xứng đáng với truyền thống vẻ vang của Đảng và sự tin yêu của nhân dân. Nghiên cứu, học tập những tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình giúp đội ngũ cán bộ, đảng viên hiểu rõ hơn tư tưởng, đạo đức, tác phong của Người, góp phần tu dưỡng đạo đức người đảng viên; thực hiện tốt hơn công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Đảng uỷ Cục Kỹ thuật, Quân khu 2 kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khoá XII
Tự phê bình và phê bình: Vấn đề luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập trong mọi giai đoạn cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng
Qua những bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay từ những ngày đầu thành lập chính quyền nhân dân sau Cách mạng Tháng Tám 1945, qua 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp cho đến những năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ, đều thể hiện rõ ý thức nghiêm khắc tự phê bình bản thân, cũng như chân thành phê bình những lỗi lầm của đội ngũ cán bộ, đảng viên, đồng bào, biến tự phê bình và phê bình thành phong trào rộng khắp, mong mọi người cùng tiến bộ, để đóng góp nhiều hơn cho sự nghiệp chung của dân tộc.
Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, trong bài viết có tiêu đề Cách tổ chức các ủy ban nhân dân, đăng trên Báo Cứu quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trước ngày khai hội của Ủy ban, ai có điều gì đề nghị, chất vấn hay phê bình cứ gửi cho Chủ tịch” (1). Cũng trên Báo Cứu quốc, bài viết của Người với đầu đề Muốn thành cán bộ tốt, phải có tinh thần tự chỉ trích có đoạn: “Sau mỗi ngày làm việc, cần phải tự mình kiểm điểm… Không chịu tự phê bình, tự chỉ trích thì không bao giờ tấn tới được”(2). Ngày 20-11-1946, trong Thông lệnh Tìm người tài đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh đăng trên Báo Cứu quốc có đoạn: “Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài có đức. E vì Chính phủ nghe không đến, thấy không khắp, đến nỗi những bực tài đức không thể xuất thân. Khuyết điểm đó tôi xin thừa nhận. Nay muốn sửa điều đó, và trọng dụng những kẻ hiền năng, các địa phương phải lập tức điều tra nơi nào có người tài đức, có thể làm được những việc ích nước lợi dân, thì phải báo cáo ngay cho Chính phủ biết. Báo cáo phải nói rõ: tên tuổi, nghề nghiệp, tài năng, nguyện vọng và chỗ ở của người đó. Hạn trong một tháng, các cơ quan địa phương phải báo cáo cho đủ”(3).
Qua những bài báo nói trên, có thể thấy rõ cách tổ chức chính quyền cách mạng nhân dân, yêu cầu về thái độ làm việc của nhân viên chính quyền trước quốc dân, đồng bào; cũng như cách thức để người công chức tự đào tạo, nâng cao trình độ bản thân qua thực tế công việc chính là tự phê bình, qua đó rút kinh nghiệm để trưởng thành hơn. Đặc biệt, qua Thông lệnh Tìm người tài đức, cũng như qua bài báo với nhan đề Tự phê bình, đăng trên Báo Cứu quốc ngày 28-1-1946, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh tự nhận lỗi có đoạn: “Những sự thành công là nhờ đồng bào cố gắng. Những khuyết điểm kể trên là lỗi tại tôi”(4); qua đây, chúng ta có thể thấy rõ tinh thần tự phê bình nghiêm khắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi Người đứng ra nhận lỗi cao nhất với tư cách người đứng đầu Chính phủ trước quốc dân, đồng bào; đồng thời, khẳng định quyết tâm sửa chữa khi chỉ rõ nội dung yêu cầu cần thực hiện, các cơ quan chịu trách nhiệm thực hiện cũng như thời hạn phải hoàn thành. Đây có thể coi như mẫu mực của sự tự phê bình cách mạng, không hề chung chung, qua loa, đối phó, mà đầy tinh thần trách nhiệm cũng như quyết tâm sửa chữa lỗi lầm.
Thể hiện tập trung nhất, đầy đủ nhất những nội dung về tự phê bình và phê bình theo tư tưởng Hồ Chí Minh chính là tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, được Người viết tháng 10-1947. Khi nói về vai trò của tự phê bình và phê bình, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Luôn luôn dùng và khéo dùng cách phê bình và tự phê bình, thì khuyết điểm nhất định hết dần, ưu điểm nhất định thêm lên và Đảng ta nhất định thắng lợi”(5). Người khẳng định: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình,… là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn…”(6); “PHẢI RÈN LUYỆN TÍNH ĐẢNG”, “phải ráo riết dùng phê bình và tự phê bình… Có như thế Đảng mới chóng phát triển”(7).
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ mục đích của tự phê bình và phê bình với người cách mạng là: “Giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ… Cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ”(8). Người cách mạng khi thực hiện tự phê bình và phê bình “chớ dùng những lời mỉa mai, chua cay, đâm thọc. Phê bình việc làm, chứ không phải phê bình người”(9), “phải tự phê bình ráo riết, và lấy lòng thân ái, lấy lòng thành thật, mà ráo riết phê bình đồng chí mình. Hai việc đó phải đi đôi với nhau”(10), “Lúc phê bình họ, ta chớ có thái độ gay gắt. Lúc khen ngợi họ, ta phải cho họ hiểu rằng: năng lực của mỗi người đều có giới hạn, tuy có thành công cũng chớ kiêu ngạo. Kiêu ngạo là bước đầu của thất bại”(11).
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ ra những khuyết điểm hay gặp phải trong tự phê bình và phê bình, đó là “Việc gì không phê bình trước mặt để nói sau lưng… Không bao giờ đề nghị gì với Đảng”, “Khi phê bình ai, không phải vì Đảng, không phải vì tiến bộ, không phải vì công việc, mà chỉ vì công kích cá nhân, cãi bướng, trả thù, tiểu khí”, “sợ mất oai tín và thể diện mình, không dám tự phê bình”(12)…
Đặc biệt, Người chỉ rõ những sai lầm về động cơ và thái độ cũng như nhận thức chính trị của một số cá nhân khi thực hiện tự phê bình và phê bình: “Lợi dụng những sai lầm và khuyết điểm… để đạt mục đích tự tư tự lợi… Đó là thái độ của đảng viên và cán bộ đầu cơ”, “Không phê bình, không tự phê bình. Đó là thái độ của những đảng viên và cán bộ ươn hèn, yếu ớt”, “đối với những người có khuyết điểm và sai lầm đó, như đối với hổ mang, thuồng luồng… đòi phải đuổi bọn kia ra khỏi Đảng ngay. Nếu Đảng không làm như thế… họ đâm ra chán nản, thất vọng… Thậm chí họ bỏ Đảng. Đó là thái độ của những người máy móc quá. Đó cũng là bệnh “chủ quan”, “phạm cái khuyết điểm hẹp hòi”(13).
Thái độ và phương pháp đúng đắn trong tự phê bình và phê bình của người cán bộ, đảng viên được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Phân tách rõ ràng, cái gì đúng, cái gì là sai”; muốn vậy phải “Ra sức học tập và nâng cao những kiểu mẫu tốt”; “ra sức tranh đấu sửa chữa những khuyết điểm, không để nó phát triển ra, không để nó có hại cho Đảng”; ‘khéo dùng cách phê bình và tự phê bình để giúp đồng chí khác sửa đổi những sai lầm và khuyết điểm, giúp họ tiến bộ”; “Đoàn kết Đảng bằng sự tranh đấu nội bộ. Nâng cao kỷ luật và uy tín của Đảng”(14)…
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ đặc điểm cơ bản trong nhận thức do vị trí công tác quyết định, dẫn đến ứng xử khác nhau trong khi thực hiện tự phê bình và phê bình của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân; từ đó Người hướng dẫn phương pháp thích hợp cho từng đối tượng để thực hiện tự phê bình và phê bình một cách có kết quả: “Những người lãnh đạo chỉ trông thấy một mặt của công việc, của sự thay đổi của mọi người: trông từ trên xuống. Vì vậy sự trông thấy có giới hạn”, họ cần phải “có mối liên hệ chặt chẽ giữa mình với các tầng lớp người, với dân chúng”(15), điều này giúp cho việc phê bình nói riêng, việc đưa ra những quyết định nói chung của những người giữ cương vị lãnh đạo không phạm phải sai lầm chủ quan, duy ý chí, không sa vào chủ nghĩa biệt lập, khép kín, cả với hoạt động tự phê bình và phê bình.
Với quần chúng nhân dân, Người chỉ rõ, do “đặc điểm rõ nhất trong tư tưởng của dân chúng là họ hay so sánh… Do sự so sánh, họ thấy chỗ khác nhau, họ thấy mối mâu thuẫn. Rồi lại do đó, họ kết luận, họ đề ra cách giải quyết”… “Vì vậy, để cho dân chúng phê bình cán bộ… nhất định không xảy ra việc thiên tư, thiên vị, nhất định hợp lý và công bằng”(16). Để quần chúng nhân dân phê bình cán bộ có kết quả, chất lượng, thực sự góp phần vào xây dựng, chỉnh đốn Đảng, cần phải bảo đảm các điều kiện như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Với nhân dân, “Trước ngày khai hội của Ủy ban, ai có điều gì đề nghị, chất vấn hay phê bình cứ gửi cho Chủ tịch”; với cán bộ, “sau mỗi ngày làm việc, cần phải tự mình kiểm điểm”; đồng thời, mỗi chủ trương, chính sách, quyết định của chính quyền cần đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng để mọi người đều nắm được và cùng quyết tâm thực hiện.
Trong quá trình lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết nhiều bài báo đề cập trực tiếp đến nội dung tự phê bình và phê bình, như bài Rút kinh nghiệm, trao đổi kinh nghiệm, bài Tự phê bình. Ngày 12-7-1951, Người có bài Phê bình, trong đó chỉ rõ: “Nguyên tắc phê bình là phải nhằm vào tư tưởng và công tác. Tư tưởng không đúng đắn thì công tác ắt sai lầm… Phải vạch rõ vì sao có khuyết điểm ấy, nó sẽ có kết quả xấu thế nào, dùng phương pháp gì để sửa chữa… Không phê bình là bỏ mất một quyền dân chủ của mình… Dìm phê bình hoặc phớt phê bình là khinh rẻ ý kiến nhân dân, là trái với dân chủ”(17). Ngày 14-2-1952, Báo Nhân Dân đăng bài báo Tự phê bình và phê bình của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đề ra các nội dung thực hiện tự phê bình và phê bình, gồm: Mục đích, Phương hướng, Trọng tâm, Cách làm. Trong đó, Cách làm bắt đầu từ Thống nhất tư tưởng, Nghiên cứu các tài liệu hướng dẫn, Kiểm thảo công việc, Tiến hành từ trên xuống, Dưới sự lãnh đạo tập trung. Người cũng chỉ rõ các khuyết điểm hay gặp phải trong thực hiện tự phê bình và phê bình là chưa biết tập trung vào những vấn đề trọng tâm; vạch khuyết điểm nhiều, nêu ưu điểm ít; không có biện pháp sửa chữa khuyết điểm, không biểu dương nhân rộng ưu điểm.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, miền Bắc bước vào công cuộc khắc phục hậu quả chiến tranh, từng bước xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của chế độ xã hội chủ nghĩa, chi viện cho miền Nam phục vụ mục tiêu chung thống nhất đất nước. Trong bối cảnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục viết những bài báo về tự phê bình và phê bình để nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, xây dựng Đảng về tư tưởng, chính trị và đạo đức. Ngày 14-6-1955, Người có bài báo Tự phê bình và phê bình, đăng trên Báo Nhân Dân. Cũng trên Báo Nhân Dân, ngày 4-7-1955, Người có bài viết Có phê bình phải có tự phê bình; ngày 26-7-1956, có bài Tự phê bình, phê bình, sửa chữa; ngày 21-8-1956, có bài Phải xem trọng ý kiến của quần chúng.
Tự phê bình và phê bình trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh – kết tinh tư tưởng của Người về vũ khí sắc bén xây dựng, chỉnh đốn Đảng
Trong bản Di chúc hoàn thành ngày 15-5-1965, sau những lời nhắn nhủ chân tình với các đồng chí, đồng bào, lời đầu tiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về Đảng. Để sự nghiệp cách mạng của dân tộc đạt được những thắng lợi vô cùng vẻ vang, theo Người, nguyên nhân cơ bản là Đảng đã phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc; trong Đảng cũng xây dựng tình đoàn kết đồng chí gương mẫu của những người cộng sản, quyết hiến dâng tinh thần và sức lực cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Tinh thần đoàn kết đó được Chủ tịch Hồ Chí Minh ví như con ngươi của mắt, có vai trò quan trọng trong nhận thức thế giới xung quanh của mỗi con người, có ý nghĩa lớn lao nhất cho sự hình thành và làm nên mỗi con người trong xã hội. Vì thế, đoàn kết có ý nghĩa quan trọng bậc nhất đối với giai cấp vô sản và những người lao động trong cuộc đấu tranh chống áp bức, cường quyền, xây dựng xã hội hòa bình, tươi đẹp. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, để củng cố và phát triển sự đoàn kết thống nhất của Đảng, “cần thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình”, bởi theo Người đó “là cách tốt nhất”(18).
Trước đó, ngày 2-1-1965, Bộ Chính trị có Chỉ thị số 88-CT/TW, Về cuộc vận động chỉnh huấn mùa xuân năm 1965. Chỉ thị chỉ rõ: “Trong cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ trung cấp và cao cấp, bên cạnh tư tưởng hữu khuynh và ảnh hưởng của chủ nghĩa xét lại chưa được khắc phục một cách triệt để, hãy còn nhiều biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân… Tình hình ấy đã làm tổn thương đến tính chất tiền phong và gương mẫu của đảng viên, gây ảnh hưởng xấu trong Đảng, trong nhân dân và thiệt hại lớn cho sự nghiệp cách mạng, cần phải kiên quyết khắc phục”(19). Chỉ thị yêu cầu: “Các đảng viên giữ cương vị lãnh đạo phải gương mẫu trong việc phê bình và tự phê bình, nhất là tự phê bình”(20). Như vậy, sự quan tâm thường xuyên của Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được quán triệt, thể hiện rõ trong văn bản chỉ đạo của Đảng; từ đó, trở thành nhiệm vụ chính trị thường xuyên của tổ chức đảng các cấp, để góp phần gột rửa những tư tưởng lạc hậu, không xứng đáng với vai trò tiền phong, gương mẫu của người đảng viên và làm ảnh hưởng đến sức mạnh của Đảng trong lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Trong bản Di chúc viết tháng 5-1968, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân”(21). Qua các bản Di chúc viết từ năm 1965 đến khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời có thể thấy, vấn đề xây dựng, chỉnh đốn Đảng luôn là mối quan tâm hàng đầu, bởi có thế Đảng mới xứng đáng với sự tin yêu của nhân dân, mới gánh vác được trọng trách mà dân tộc giao phó, và bởi vì Đảng ta là Đảng cầm quyền, như lời khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc. Để Đảng có sức mạnh tuyệt đối dẫn dắt dân tộc qua mọi thử thách, cần phải giữ vững tinh thần đoàn kết trong Đảng, giữa nhân dân với Đảng. Muốn vậy, cần thực hành dân chủ, giữ vững đạo đức đảng viên, bằng cách thực hiện thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình – vũ khí hiệu quả và sắc bén chống lại mọi biểu hiện vi phạm đạo đức đảng viên cũng như sự chia rẽ trong Đảng.
Những nội dung về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập trong Di chúc, đều đã được Người nhiều lần nêu lên một cách cụ thể và chi tiết trong các tác phẩm ở những thời điểm khác nhau của cách mạng. Những tư tưởng đó phản ánh rõ nét quá trình hình thành, sự cụ thể hóa và được Người trình bày một cách hệ thống, để cuối cùng được nêu lên một cách cô đọng, tập trung nhất trong Di chúc.
Phát huy mạnh mẽ vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị – xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền_Nguồn: thanhuytphcm.vn
Phát huy tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình trong xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay
Quán triệt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình trong xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay, cần tập trung thực hiện có hiệu quả một số nội dung:
Thứ nhất, tự phê bình và phê bình cần thực hiện thường xuyên, liên tục. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, công tác tự phê bình và phê bình cần thực hiện thường xuyên, nghiêm chỉnh, sau mỗi công việc, sau mỗi ngày làm việc, mỗi người cần nghiêm túc rút kinh nghiệm để thấy rõ những lỗi lầm mắc phải, từ đó tránh lặp lại trong những công việc về sau. Bởi vì tự phê bình và phê bình là nhằm vào công việc, tức kết quả cuối cùng sau khi hoàn thành công việc và thái độ thực hiện công việc, nên nếu sau khi hoàn thành nhiệm vụ không nghiêm túc kiểm điểm rút kinh nghiệm, chỉ rõ ưu, khuyết điểm thì sẽ khó tránh khỏi chủ quan, kiêu ngạo, hoặc lặp lại sai lầm trong công tác về sau, cũng như không nhân rộng, phát huy được những ưu điểm, từ đó bỏ sót những nhân tố có ích cho phong trào chung.
Thực tế thời gian qua đã minh chứng rõ điều này, khi hoạt động tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng, việc phát động và tổ chức nhân dân góp ý xây dựng và chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa làm chưa nghiêm túc, dẫn đến những sai lầm từ nhỏ nhưng không được phê phán, ngăn chặn, đẩy lùi, đã trở thành những sai phạm lớn, nghiêm trọng. Điều này đã được Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Trong tự phê bình và phê bình, tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm vẫn còn khá phổ biến, một số cán bộ, đảng viên chưa tự giác nhìn nhận đúng mức khuyết điểm và trách nhiệm của mình trong công việc được giao phụ trách”(22).
Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng đến nay, nhiều vụ án tham nhũng lớn đã được đưa ra điều tra, truy tố, xét xử; mặc dù thể hiện quyết tâm của Đảng, tính nghiêm minh của pháp luật, nhưng đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín của Đảng. Trong đó, có nhiều vụ án, dù được cán bộ, quần chúng ở cơ sở, đơn vị sớm phát hiện, đấu tranh với đương sự và những người có liên quan nhưng không có kết quả; gửi đơn, thư tố cáo cũng “biệt vô âm tín”, thậm chí còn bị dọa dẫm, trù dập. Do đó, để phát huy tốt vai trò của tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng thường kỳ, vai trò lãnh đạo và trách nhiệm đầu tiên chính là của người đứng đầu cấp ủy và tập thể cấp ủy cơ quan, địa phương, đơn vị. Ở đây, cần quán triệt chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Muốn tự phê bình và phê bình có kết quả, cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cao cấp phải làm gương trước”, gắn với việc thực hiện tốt Quy định số 08-Qđi/TW, ngày 25-10-2018, của Ban Chấp hành Trung ương, về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”.
Thứ hai, tự phê bình và phê bình cần thực hiện một cách thiết thực, hiệu quả. Thiết thực, hiệu quả chính là tự phê bình và phê bình có nội dung cụ thể, gắn với công việc cụ thể được phân công, cương vị được đảm nhiệm; tránh tự phê bình và phê bình một cách chung chung, chỉ dựa trên những căn cứ trừu tượng, mà phải dựa trên lời nói và việc làm cụ thể của từng cá nhân.
Trong tự phê bình và phê bình về việc làm của cá nhân, cần tập trung chú trọng đánh giá về việc làm trên những nội dung cụ thể, như kế hoạch thực hiện, biện pháp cụ thể, quyết tâm khắc phục khó khăn, trở ngại để hoàn thành công việc. Tự phê bình và phê bình với lời nói của cá nhân có vai trò quan trọng, bởi mỗi cán bộ, đảng viên về nguyên tắc chính là hình mẫu về đạo đức cách mạng, do đó, phát ngôn của họ phải thể hiện sự chuẩn mực, nghiêm túc…; có như vậy, mới làm gương cho quần chúng nhân dân. Nhất là trong thời đại công nghệ thông tin bùng nổ hiện nay, mỗi phát ngôn không chuẩn mực, không đúng lúc, đúng chỗ của người có trách nhiệm dễ gây hậu quả không tốt, phương hại tới uy tín của tổ chức, cơ quan, đơn vị, thậm chí gây ra “cơn bão truyền thông”. Do đó, nếu phát hiện lời nói của một cá nhân thể hiện suy nghĩ chưa đúng đắn, tổ chức đảng phụ trách cá nhân đó và các đảng viên cùng sinh hoạt cần phải góp ý để chấn chỉnh, giúp đỡ, tránh việc cá nhân tiếp tục phát ngôn trái với quan điểm, đường lối của Đảng, qua đó giúp đồng chí mình không vi phạm kỷ luật phát ngôn.
Thứ ba, phát huy mạnh mẽ vai trò của quần chúng nhân dân trong nâng cao hiệu quả tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng nói chung, trong phê bình tổ chức đảng và chính quyền các cấp nói riêng. Người đã chỉ rõ đặc điểm tâm lý của quần chúng nhân dân và kết luận: để cho dân chúng phê bình cán bộ… nhất định không xảy ra việc thiên tư, thiên vị, nhất định hợp lý và công bằng.
Để phát huy mạnh mẽ vai trò của quần chúng nhân dân trong nâng cao hiệu quả tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ, đảng viên, trước hết, cần tổ chức tốt việc thực hiện có hiệu quả Quyết định số 218-QĐ/TW, ngày 12-12-2013, của Bộ Chính trị, về “Ban hành quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị – xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền”. Từ đó, tạo thành phong trào hành động thiết thực để nhân dân góp ý chung về công tác lãnh đạo, điều hành của tổ chức đảng, chính quyền các cấp, để tạo ảnh hưởng lan truyền tới hoạt động tự phê bình và phê bình trong mỗi tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị, địa phương. Bên cạnh đó, cần nghiêm túc, chân thành tiếp thu những ý kiến đóng góp, phê bình của quần chúng nhân dân mọi lúc, mọi nơi, qua các “kênh” tiếp nhận của tổ chức đảng, chính quyền các cấp; coi việc tiếp xúc với nhân dân, nghiêm túc tiếp thu, trả lời ý kiến góp ý, phê bình của quần chúng nhân dân là trách nhiệm chính trị của người đứng đầu tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị, địa phương.
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện. Trải qua hơn 80 năm phấn đấu, xây dựng và trưởng thành, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, với bản lĩnh của một đảng cách mạng chân chính, dạn dày kinh nghiệm, luôn gắn bó máu thịt với nhân dân, Đảng đã lãnh đạo, tổ chức và phát huy sức mạnh to lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, giành được nhiều thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp cách mạng.
Từ khi thực hiện đường lối đổi mới, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư các khóa đã ban hành nhiều chủ trương, nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Trong đó, gần đây nhất là Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI: Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay đang được Ban chấp hành Trung ương Đảng quán triệt và triển khai thực hiện. Nghị quyết đã đánh giá tình hình công tác xây dựng Đảng trong những năm qua và chỉ ra một số nguyên nhân cơ bản đẫn đến những hạn chế, yếu kém. Trong đó nhấn mạnh nguyên nhân: nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình ở nhiều nơi vừa bị buông lỏng trong thực hiện, vừa chưa được quy định cụ thể để làm cơ sở cho công tác kiểm tra, giám sát.
Vấn đề này dã được Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm, nhắc nhở cán bộ, đảng viên. Chính vì vậy, trong di chúc để lại cho Đảng, cho nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Phải giữ gìn đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”(1). Vậy làm thế nào để Đảng ta có được điều đó? Bác đã chỉ ra: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình”(2). Ở Hồ Chí Minh, tự phê bình và phê bình đã trở thành một nguyên tắc không thể thiếu trong phong cách lãnh đạo của Người. Dù ở cương vị lãnh đạo cao nhất, Người vẫn thực hành tự phê bình và phê bình một cách nghiêm túc, nêu tấm gương sáng về đức tính trung thực, thẳng thắn, về thái độ và phương pháp phê bình cho cán bộ, đảng viên noi theo.
Từ một quan niệm hết sức giản dị nhưng bao hàm tính triết lý và biện chứng sâu sắc: người đời không phải là thần thánh, không ai tránh khỏi khuyết điểm, Bác chỉ ra rằng: “Tổ chức đảng cũng vậy, Đảng không phải trên trời rơi xuống, “Đảng là người, nên có sai lầm”, tức là cũng có lúc khoẻ mạnh, lúc ốm đau, bệnh tật. Đó là lẽ thường tình, không vì thấy ốm đau mà phát sinh tư tưởng lo sợ, bi quan, tuyệt vọng, giấu giếm bệnh tật trong mình”(2). Do đó, theo Bác có bệnh thì phải mạnh dạn, chủ động, khẩn trương, kiên trì chạy chữa. Hồ Chí Minh chỉ ra liều “thần dược” để chữa trị các chứng bệnh trong cơ thể của tổ chức Đảng và mỗi cá nhân đảng viên là tự phê bình và phê bình: “Tự phê bình là phương thuốc trị bệnh cứu mình, phê bình là phương thuốc trị bệnh cứu người”. Người nói: “Phê bình cũng như uống thuốc. Sợ phê bình cũng như có bệnh mà giấu bệnh, không dám uống thuốc, để đến nỗi bệnh càng nặng, không chết cũng “la lết quả dưa”(2).
Bác yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên “mỗi ngày phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt”. Đảng cách mạng cần tự phê bình và phê bình như con người cần không khí, không có không khí con người sẽ chết, không có tự phê bình và phê bình Đảng khó lòng mà tồn tại. Chủ tich Hồ Chí Minh khẳng định: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”. Đảng cần phải biết những ưu điểm và khuyết điểm của mình “để dạy dỗ đảng viên, dạy dỗ quần chúng”(2).
Tự phê bình và phê bình là thứ vũ khí sắc bén nhất giúp Đảng ta ngày càng thêm mạnh, ngày càng phát triển, càng nâng cao hơn nữa năng lực và sức chiến đấu của Đảng. Tự phê bình và phê bình giúp ta sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm, tiến bộ không ngừng. Bởi vậy, theo Bác, trong Đảng muốn đoàn kết chặt chẽ, “ắt phải thống nhất tư tưởng, mở rộng dân chủ nội bộ, mở rộng tự phê bình và phê bình”. Có thực hành dân chủ rộng rãi thì tự phê bình và phê bình mới trở thành nền nếp thường xuyên trong sinh hoạt Đảng. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (năm 1947), Bác viết: “Nếu cách lãnh đạo của ta không được dân chủ thì đối với cơ quan lãnh đạo, đối với những người lãnh đạo, các đảng viên và cán bộ dù có ý kiến cũng không dám nói, dù muốn phê bình cũng sợ không dám phê bình”.
Tự phê bình và phê bình là nhu cầu nội tại của tổ chức Đảng và đảng viên. Song sử dụng nó phải đúng mục đích thì mới có tác dụng, hiệu quả cao. Nếu sử dụng không đúng mục đích thì dù đó là vũ khí sắc bén cũng không tiêu diệt được kẻ thù, là “thần dược” cũng không trị được bệnh. Chủ tịch Hồ Chí Minh giải thích: “Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ. Vì vậy phê bình mình cũng như phê bình người phải vạch rõ cả ưu điểm và khuyết điểm. Phê bình việc làm chứ không phải phê bình người”. Do đó, tự phê bình và phê bình tức là gột rửa những thói hư tật xấu, những cái nhơ bẩn lây bám, xâm nhập vào con người chứ không phải cắt bỏ thân thể con người. Tư tưởng nhân văn, đề cao yếu tố con người của Hồ Chí Minh ở đây thật bao la, sâu sắc và chan chứa tình người. Bác Hồ đã từng phê phán: “Ai hợp với mình thì người xấu cũng cho là tốt, việc dở cũng cho là hay, rồi che đậy cho nhau, ủng hộ lẫn nhau. Ai không hợp với mình thì người tốt cũng cho là xấu, việc hay cũng cho là dở, rồi tìm cách dèm pha, nói xấu, tìm cách dìm người đó xuống. Bệnh này rất tai hại cho Đảng, nó làm hại đến sự thống nhất”.
Từ quan điểm xuất phát thể hiện tính dân chủ và nhân đạo cao cả, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra phương pháp, hình thức và những yêu cầu để tiến hành tự phê bình và phê bình đạt hiệu quả cao nhất:
Trước hết, phê bình phải đi đôi với tự phê bình và phê bình phải gắn liền với sửa chữa, với biểu dương khen thưởng. Nếu chỉ phê bình người khác mà không tự phê bình thì chẳng khác nào “thầy thuốc chỉ đi chữa bệnh người khác mà bệnh nặng trong mình thì quên chữa”. Tại buổi Lễ bế mạc lớp Bổ túc trung cấp (10/1947), Hồ Chí Minh đã nói: “Tự phê bình rồi lại phải phê bình người khác nữa… Nếu tôi có vết nhọ trên trán, các đồng chí trông thấy, lại lấy cớ “nể Cụ” không nói, là tôi mang nhọ mãi. Nhọ ở trên trán thì không quan trọng, nhưng nếu có vết nhọ ở trong óc, ở tinh thần, mà không nói cho người ta sửa tức là hại người…Thấy cái xấu của người mà không phê bình là một khuyết điểm rất to. Không phê bình, tức là để cho cái xấu của người ta phát triển”.
Tự phê bình và phê bình phải gắn với sửa chữa, tức là phải chỉ rõ ưu, khuyết điểm và phương hướng để phát huy hoặc khắc phục. Đồng thời phải gắn với động viên, khen thưởng, xử phạt rõ ràng.
Thứ hai, tự phê bình và phê bình phải đạt tới cái đích là làm rõ đúng, bảo đảm tính khách quan, trung thực, thẳng thắn và chân tình. Tự phê bình cũng như phê bình phải trung thực, không nể nang, không thêm bớt. Bác nhắc nhở: “Phê bình phải nghiêm chỉnh, chắc chắn, phụ trách, nói có sách, mách có chứng. Phải phê bình với tinh thần thành khẩn, xây dựng, “trị bệnh cứu người”, chớ phê bình lung tung không chịu trách nhiệm. Khi phê bình, chớ dùng những lời mỉa mai, chua cay, đâm thọc. Trong lúc phê bình, khuyết điểm phải vạch rõ ràng, mà ưu điểm cũng phải nhắc đến. Một mặt là để sửa chữa cho nhau. Một mặt là để khuyến khích nhau, bắt chước nhau”.
Thứ ba, Khi tiến hành tự phê bình và phê bình phải bảo đảm tính dân chủ, công khai. Công khai phân tích, nhận xét, đánh giá ưu, khuyết điểm của mình, đồng chí mình và tổ chức đảng trước hội nghị, phê phán nghiêm khắc tình trạng “ngồi lê đôi mách”, “việc gì cũng không phê bình trước mặt mà để nói sau lưng”. Bác cho rằng: ” Kiểu phê bình như vậy là biểu hiện của bệnh “cá nhân””.
Tự phê bình và phê bình muốn đạt kết quả cao thì phải được tiến hành trong bầu không khí thật dân chủ, bình đẳng. Chỉ có dân chủ rộng rãi thì mọi cán bộ, đảng viên, nhân dân mới tích cực, chủ động, nói thẳng, nói thật. Song mở rộng dân chủ trong tự phê bình và phê bình không có nghĩa là muốn nói gì thì nói, muốn phê thì phê. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì một cuộc tự phê bình và phê bình nghiêm túc là: “Trong lúc thảo luận, mọi người được tự do hoàn toàn phát biểu ý kiến , dù đúng hoặc không đúng cũng vậy. Song không được nói gàn, nói vòng quanh”. ở đây, vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt rất quan trọng, như Bác đã dạy: cán bộ cao cấp phải gương mẫu tự phê bình và phê bình trước.
Thứ tư, tự phê bình và phê bình phải được tiến hành thường xuyên, phê bình từ trên xuống và từ dưới lên, nhất là từ dưới lên, có như vậy mới đạt hiệu quả cao. Bởi vì, nếu chỉ phê bình một chiều thì như Bác so sánh cũng giống như người “đi một chân, không thể đi được”.
Khi tiến hành tự phê bình và phê bình phải đảm bảo đúng nguyên tắc, song cách thức tiến hành phải mềm dẻo, khéo léo. Nếu chỉ dùng phương pháp cứng rắn, mệnh lệnh, ép buộc thì rất khó tiếp thu. Phê bình không đúng lúc, đúng chỗ, không khôn khéo sẽ có tác dụng ngược lại thậm chí còn gây ra hậu quả khó lường bởi lẽ lời chê như một mồi lửa, lòng tự ái, kiêu căng của con người giống như một kho thuốc súng. Ngày xưa,Trang Tử cũng đã từng nói: Người chê ta phải là thầy ta, người khen ta phải là bạn ta, người nịnh hót ta là kẻ thù của ta.
Thứ năm, người và tổ chức được phê bình phải có thái độ thành khẩn, vui lòng để sửa đổi, không nên vì bị phê bình mà nản chí hoặc oán ghét. Hết sức tránh thái độ “giấu bệnh sợ thuốc”, bị phê bình thì im lặng, không tìm cách sửa đổi. Hồ Chí Minh gọi đó là “thái độ không thật thà, không đúng đắn” và thái độ đó sẽ dẫn đến hậu quả hết sức nghiêm trọng, bệnh ngày càng nặng thêm, thậm chí nguy hiểm đến tính mạng.
Trong bất kỳ một tổ chức đảng nào, cho dù là tổ chức đảng cấp trên hay tổ chức đảng cấp dưới, bất kỳ một cá nhân đảng viên ở cương vị nào nếu không thấm nhuần tư tưởng tự phê bình và phê bình của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì cũng sẽ phạm phải những sai lầm lớn. Thực tế hiện nay, một số tổ chức đảng và đảng viên đã làm tốt công tác tự phê bình và phê bình, trong các cuộc họp đã dám nói thẳng, nói thật ưu, khuyết điểm giúp tổ chức đảng và đồng chí mình phát huy, sửa chữa. Song bên cạnh đó, vẫn còn một số tổ chức đảng chưa phát huy tốt tinh thần phê và tự phê. Trong các cuộc hội nghị, cán bộ, đảng viên không dám góp ý kiến, đặc biệt là góp ý cho cấp trên, cho lãnh đạo vì sợ bị trù dập, không được thăng chức, nâng lương… Một số tổ chức đảng và đảng viên không góp ý cho tổ chức, cho đồng chí mình ngay trong cuộc họp mà lại đi nói sau lưng có tính chất “kích động”, làm mất uy tín người khác. Bên cạnh đó vẫn còn một số cán bộ, đảng viên lợi dụng tinh thần phê và tự phê để chỉ trích, phê phán người khác với thái độ không thiện cảm, vì mục đích cá nhân “vạch lá tìm sâu”, “chuyện bé xé ra to”, làm cho người bị phê bình không nhận ra được sai lầm để sửa hoặc có nhận ra họ cũng khó lòng mà sửa được. Bởi vậy, chúng ta học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh phải bằng hành động thực tế, không nên hô hào, chỉ nói mà không làm hoặc nói nhiều làm ít.
Tự phê bình và phê bình là biện pháp quan trọng nâng cao trí tuệ, phát hiện và giải quyết những mâu thuẫn trong Đảng, là quy luật sinh tồn và phát triển của Đảng. Tự phê bình và phê bình đòi hỏi phải có tính Đảng và tính nguyên tắc cao, phải đảm bảo tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, tăng cường được mối quan hệ chặt chẽ giữa đảng và quần chúng. Chủ tich Hồ Chí Minh đã tiếp thu, nghiên cứu, vận dụng và bổ sung sáng tạo quan điểm của Mác, Ăngghen, Lênin về vấn đề tự phê bình và phê bình một cách hết sức cụ thể và độc đáo. Chính vì vậy, Đảng ta đã lãnh đạo cách mạng nước ta đi đến thành công, xứng đáng và làm tròn vai trò lãnh tụ chính trị của giai cấp và của dân tộc. Ngày nay, khi toàn Đảng đang quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về một số vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng, chúng ta càng thấm nhuần hơn tư tưởng tự phê bình và phê bình của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Điều này sẽ giúp chúng ta thực hiện thà