viết bài văn nghị luận bàn về mối quan hệ giữa `học` và `hành`
0 bình luận về “viết bài văn nghị luận bàn về mối quan hệ giữa `học` và `hành`”
Nguyễn Lộ Trạc (1853? – 1895?), tên tự là Hà Nhân, hiệu là Kỳ Am, biệt hiệu Quỳ Ưu, Hồ Thiên Cư Sĩ, Bàn Cơ Điếu Đồ, là nhà văn và là nhà cách tân đất nước Việt Nam ở nửa cuối thế kỷ XIX.
Nguyễn Lộ Trạch sinh ngày 15 tháng 2 năm 1853 tại Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Tuy nhiên, quê gốc của ông là làng Kế Môn, huyện Phong Ðiền, tỉnh Thừa Thiên (nay thuộc xã Điền Môn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế).
Tác phẩm của Nguyễn Lộ Trạch phần lớn đều bằng chữ Hán, gồm có:
Quỳ Ưu lục: là tập hợp các bài văn nghị luận của ông (trong đó có“Thời vụ sách I, II”và“Thiên hạ đại thế luận”), do tự tay ông sắp xếp vào năm1884.
Kỷ trào lục(Tự nhạo mình như ngườinước Kỷ)
Kỳ Am dã thoại(Những lời quê mùa của Kỳ Am)
Kỳ Am thi văn toàn tập(Toàn tập thơ văn của Kỳ Am)
Quốc ngữ thị phụ giai ẩn từ(Bài caquốc ngữkhuyên vợ cùng đi ẩn).
Song phần lớn thơ văn trên đều đã thất lạc, chỉ còn lại tậpKỳ Am Nguyễn Lộ Trạch di văn(Những bài văn còn lại của Kỳ Am Nguyễn Lộ Trạch) do người đời sau góp nhặt. Trong đó có Quỳ Ưu lục, một số thư từ và 15 bài thơ.
Nhìn chung thơ ông mang âm hưởng trầm buồn. Văn nghị luận của ông, ngoài sự nhiệt huyết ra còn hấp dẫn người đọc ở những ví dụ giàu sức biểu cảm, vừa tác động vào cảm xúc, vừa có ý vị trào lộng hài hước, khiến người đọc không ai có thể thờ ơ,…
Nguyễn Lộ Trạc (1853? – 1895?), tên tự là Hà Nhân, hiệu là Kỳ Am, biệt hiệu Quỳ Ưu, Hồ Thiên Cư Sĩ, Bàn Cơ Điếu Đồ, là nhà văn và là nhà cách tân đất nước Việt Nam ở nửa cuối thế kỷ XIX.
Nguyễn Lộ Trạch sinh ngày 15 tháng 2 năm 1853 tại Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Tuy nhiên, quê gốc của ông là làng Kế Môn, huyện Phong Ðiền, tỉnh Thừa Thiên (nay thuộc xã Điền Môn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế).
Tác phẩm của Nguyễn Lộ Trạch phần lớn đều bằng chữ Hán, gồm có:
Song phần lớn thơ văn trên đều đã thất lạc, chỉ còn lại tập Kỳ Am Nguyễn Lộ Trạch di văn (Những bài văn còn lại của Kỳ Am Nguyễn Lộ Trạch) do người đời sau góp nhặt. Trong đó có Quỳ Ưu lục, một số thư từ và 15 bài thơ.
Nhìn chung thơ ông mang âm hưởng trầm buồn. Văn nghị luận của ông, ngoài sự nhiệt huyết ra còn hấp dẫn người đọc ở những ví dụ giàu sức biểu cảm, vừa tác động vào cảm xúc, vừa có ý vị trào lộng hài hước, khiến người đọc không ai có thể thờ ơ,…