Viết đoạn văn về quá trình thành lập các triều đại phong kiến việt nam. (Mng giúp mik vs ah)
0 bình luận về “Viết đoạn văn về quá trình thành lập các triều đại phong kiến việt nam. (Mng giúp mik vs ah)”
Lịch sử Việt Namnếu tính từ lúc có mặtcon ngườisinh sống thì đã có hàng vạn nămtrước Công nguyên, còn tính từ khi cơ cấunhà nướcđược hình thành thì mới khoảng từ700 năm trước công nguyên.
Cácnhà khảo cổđã tìm thấy cácdi tíchchứng minhloài ngườiđã từng sống tạiViệt Namtừthời đại đồ đá cũthuộcnền văn hóaTràng An,Ngườm,Sơn VivàSoi Nhụ. Vàothời kỳ đồ đá mới, nền văn hóaHòa Bình–Bắc Sơntại vùng này đã phát triển vềchăn nuôivànông nghiệp, đặc biệt làkỹ thuậttrồnglúa nước. Những người Việt tiền sử trênvùng châu thổsông Hồng–Văn minh sông Hồngvàsông Mãnày đã khai hóa đất để trồng trọt, tạo ra một hệ thống đê điều để chế ngự nước lụt của các sông, đào kênh để phục vụ cho việc trồng lúa và đã tạo nên nềnvăn minh lúa nướcvàvăn hóa làng xã
Truyền thuyết kể rằng từ năm2879 TCN, nhà nướcXích Quỷcủa người Việt đã hình thành, cùng thời với truyền thuyết vềTam Hoàng Ngũ ĐếtạiTrung Quốc. Tuy nhiên, đây chỉ là truyền thuyết dân gian, các nghiên cứu khảo cổ hiện chưa tìm được bằng chứng nào cho thấy nhà nước này từng tồn tại.
Đếnthời kỳ đồ sắt, vào khoảngthế kỷ 8 TCNđã xuất hiệnnhà nướcđầu tiên củangười Việttrênmiền Bắc Việt Namngày nay. Theo sử sách, đó làNhà nước Văn Langcủa cácvua Hùng. Thời kỳVua Hùngđược nhiều người ghi nhận làquốc giacó tổ chức đầu tiên củangười Việt Nam, bắt đầu với truyền thuyếtCon Rồng cháu Tiênmàngười Việt Namtự hào truyền miệng từ đời này qua đời khác.
Thời kỳ Bắc thuộc (179 TCN–938)Bắc thuộc lần 1(179 TCN–40)Nhà Triệucai trị (179 – 111 TCN)Xem thêm:Vấn đề chính thống của nhà TriệuXem thêm:Nhà TriệuvàNam Việt
Bắc thuộclà một vấn đề còn có hai quan điểm khác nhau từ xưa đến nay của lịch sử Việt Nam, phần lớn các quan điểm sử học thời phong kiến đều cho rằngnhà Triệulà một triều đại trong lịch sử Việt Nam, vì vậy thời Bắc thuộc bắt đầu từ năm111 TCNkhinhà Hánđánh chiếm nước Nam Việt. Quan điểm thứ hai được xuất hiện từthế kỷ 18khi sử giaNgô Thì Sĩphủ nhậnnhà Triệulà triều đại chính thống của Việt Nam vìTriệu Đàvốn là người Hoa ở phương Bắc, là tướng theo lệnhTần Thủy Hoàngmà đánh xuống phương Nam. Quan điểm này được tiếp nối bởi sử giaĐào Duy Anhtrongthế kỷ 20, các sách lịch sử trong nền giáo dục tại Việt Nam hiện nay đều theo quan điểm này. Theo quan điểm thứ hai này thì thờiBắc thuộctrong lịch sử Việt Nam bắt đầu từ năm179 TCNkhinhà Triệuđánh chiếm nướcÂu LạccủaAn Dương Vương.
Cuối thời Tần,Triệu Đà(người nước Triệu thờiChiến Quốc, nay là tỉnhHà Bắccủa Trung Quốc) đượcnhà Tầnbổ nhiệm là Huyện lệnh huyện Long Xuyên, sau đượcNhâm Ngaotự ý bổ nhiệm làm Quận úy quậnNam Hải(thuộc tỉnhQuảng Đôngngày nay).
Nhân khinhà Tầnrối loạn sau cái chết củaTần Thủy Hoàng(210 TCN),Triệu Đàđã tách ra cát cứ quậnNam Hải, sau đó đem quân thôn tính sáp nhập vương quốcÂu Lạcvà quậnQuế Lâmlân cận rồi thành lập một nước riêng, quốc hiệuNam Việtvới kinh đô đặt tạiPhiên Ngung(nay là thành phốQuảng Châu, tỉnhQuảng Đông) vào năm207 TCN.
NướcNam Việttrong thờinhà Triệubao gồm khu vực hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây của Trung Quốc vàmiền Bắc Việt Namngày nay.Nam Việtđược chia thành 4 quận:Nam Hải, Quế Lâm,Giao ChỉvàCửu Chân. Biên giới phía bắc là hệ thống dãy núiNgũ Lĩnh, biên giới phía nam làdãy Hoành Sơn.
Sau khinhà Hánđược thành lập và thống nhất toàn Trung Quốc, Triệu Đà xưng là Hoàng đế của nước Nam Việt để tỏ ý ngang hàng vớinhà Tây Hán. Trong khoảng thời gian 68 năm (179 TCN – 111 TCN),miền Bắc Việt Namhiện nay là một phần của nướcNam Việt, nước này có vua làngười Trung Hoavà vị vua này không công nhận sự cai trị củanhà Hán.
Năm111 TCN, đội quân củaHán Vũ Đếxâm chiếm nướcNam Việtvà sáp nhập Nam Việt vào đế chế Hán.Người Trung Quốcmuốn cai quản miềnchâu thổ sông Hồngđể có điểm dừng cho tàu bè đang buôn bán vớiĐông Nam Á[11]. Trongthế kỷ 1, các tướng Lạc Việt vẫn còn được giữ chức, nhưngTrung Quốcbắt đầu chính sáchđồng hóacáclãnh thổbằng cách tăngthuếvà cải tổ luật hôn nhân để biếnViệt Namthành một xã hội phụ hệ để dễ tiếp thu quyền lực chính trị hơn.
Hai Bà Trưng(40–43)
Một cuộc khởi nghĩa doHai Bà Trưnglãnh đạo đã nổ ra ở quậnGiao Chỉ, tiếp theo sau đó là các quậnCửu Chân,Nhật Nam,Hợp Phốvà các địa phương khác của vùngLĩnh Nam(mà theo cổ sử Việt ghi nhận là có tất cả 65 thành trì) hưởng ứng trong năm40. Sau đó,nhà Hánphái tướngMã Việnsang đàn áp cuộc khởi nghĩa này. Sau 3 năm giànhđộc lập, cuộc khởi nghĩa bị tướngMã Việnđàn áp. Do bị cô lập vàquân độichưa tổ chức hoàn thiện nênHai Bà Trưngkhông đủ sức chống cự lại quân do Mã Viện chỉ huy. Hai Bà Trưng đã tự vẫn trên dòngsông Hátđể giữ vẹn khí tiết.
Bắc thuộc lần 2(43–544)
Tiếp theo saunhà Hán, cáctriều đại phong kiến Trung Quốckế tiếp khác nhưĐông Ngô,nhà Tấn,Lưu Tống,Nam Tề,nhà Lươnglần lượt thay nhau đô hộViệt Nam, người Việt cũng đã nhiều lần nổi dậy chống lại sự cai trị của ngoại bang, tuy nhiên tất cả đều không thành công cho mục tiêu giành độc lập.
Các cuộc nổi dậy tiêu biểu như khởi nghĩa anh emTriệu Quốc ĐạtvàTriệu Thị Trinhvào thời thuộcĐông Ngô. Cuộc nổi dậy của anh emLý Trường NhânvàLý Thúc Hiếntừ thời bắc thuộc Lưu Tống, Nam Tề từ năm 468 đến 485.
Nhà Tiền Lý(544–602)
Năm541,Lý Bínổi dậy khởi nghĩa, đã đánh đuổi được thứ sử Tiêu Tưnhà Lương, sau 3 lần đánh bại quân Lương những năm kế tiếp,Lý Bítự xưng đế tức làLý Nam Đế, lập ra nướcVạn Xuânvào năm544. Đến năm545,nhà LươngcửTrần Bá Tiênvà Dương Phiêu sang đánh nướcVạn Xuân, Lý Nam Đế bị thua trận, giao lại binh quyền choTriệu Quang Phục. Sau khi Lý Nam Đế mất, Triệu Quang Phục đánh đuổi được quân Lương vào năm550, bảo vệ được nước Vạn Xuân. Ông tự xưng làTriệu Việt Vương, đến năm571, một người cháu của Lý Nam Đế làLý Phật Tửđã cướp ngôi Triệu Việt Vương, tiếp tục giữ được sự độc lập cho người Việt thêm 20 năm nữa cho đến khinhà Tùysang đánh năm602.
Bắc thuộc lần 3(602–923 hoặc 930)
Kế tiếp nhà Tùy,nhà Đườngđô hộViệt Namgần 300 năm. Trung Quốc đến thời Đường đạt tới cực thịnh, bành trướng ra 4 phía, phía bắc lập ra An Bắc đô hộ phủ, phía đông đánh nướcCao Lylập ra An Đông đô hộ phủ, phía tây lập ra An Tây đô hộ phủ và phía nam lập ra An Nam đô hộ phủ, tức là lãnh thổ nước Vạn Xuân cũ.
Trong thời kỳ thuộc nhà Đường, đã nổ ra các cuộc khởi nghĩa chống Bắc thuộc của người Việt như khởi nghĩaLý Tự TiênvàĐinh Kiến, khởi nghĩaMai Hắc Đế, khởi nghĩaPhùng Hưngvà khởi nghĩaDương Thanhtừ cuốithế kỷ VIIđếnthế kỷ IX.
Từ sauloạn An Sử(756–763),nhà Đườngsuy yếu và bị mất thực quyền kiểm soát với nhiều địa phương do các phiên trấn cát cứ, không kiểm soát nổi phía nam. An Nam đô hộ phủ bị các nước láng giềngNam Chiếu,Chăm Pa,Sailendravào cướp phá và giết hại người bản địa rất nhiều, riêng Nam Chiếu đã giết và bắt đến 15 vạn người, quân Đường bị đánh bại nhiều lần. Tới năm 866, nhà Đường kiểm soát trở lại và đổi gọi làTĩnh Hải quân.
Cuốithế kỷ IX, nhà Đường bị suy yếu trầm trọng saucuộc nổi loạncủaHoàng Sàovà các chiến tranh quân phiệt tại Trung Quốc. Tại Việt Nam, năm905, một hào trưởng địa phương người Việt làKhúc Thừa Dụđã chiếm giữ thủ phủ Đại La, bắt đầuthời kỳ tự chủcủa người Việt.
Ảnh hưởng đến văn hóa Việt Nam
Các triều đại này cố gắngđồng hóadân tộc Việt Nam theo tộc Hán. Tuy vậy, mặc dù chịu nhiều ảnh hưởng về tổ chứcthể chế chính trị,xã hội,văn hóacủa Trung Quốc, nhưng người Việt Nam vẫn giữ được nhiều bản chất nền tảng văn hóa dân tộc vốn có của mình sau một nghìn năm đô hộ.[12]
Người Việt cũng chịu ảnh hưởng củaPhật giáo Đại thừađang phát triển ởĐông Á, mặc dù lúc đóĐông Nam Áđã chịu ảnh hưởng củaẤn Độ giáovàPhật giáo Nguyên thủy. Phật giáo Đại thừa được hòa trộn vớiNho giáo,Lão giáovà thêm vào đó là cáctín ngưỡng dân gian địa phương[13].
Thời kỳ tự chủ (905–938)Họ Khúc(905–923 hoặc 930)
Năm 905,Khúc Thừa Dụđã xây dựng chính quyền tự chủ của người Việt nhân khinhà Đườngsuy yếu, đặt nền móng cho nềnđộc lậpcủa Việt Nam.
Lịch sử Việt Nam nếu tính từ lúc có mặt con người sinh sống thì đã có hàng vạn năm trước Công nguyên, còn tính từ khi cơ cấu nhà nước được hình thành thì mới khoảng từ 700 năm trước công nguyên.
Các nhà khảo cổ đã tìm thấy các di tích chứng minh loài người đã từng sống tại Việt Nam từ thời đại đồ đá cũ thuộc nền văn hóa Tràng An, Ngườm, Sơn Vi và Soi Nhụ. Vào thời kỳ đồ đá mới, nền văn hóa Hòa Bình – Bắc Sơn tại vùng này đã phát triển về chăn nuôi và nông nghiệp, đặc biệt là kỹ thuật trồng lúa nước. Những người Việt tiền sử trên vùng châu thổ sông Hồng – Văn minh sông Hồng và sông Mã này đã khai hóa đất để trồng trọt, tạo ra một hệ thống đê điều để chế ngự nước lụt của các sông, đào kênh để phục vụ cho việc trồng lúa và đã tạo nên nền văn minh lúa nước và văn hóa làng xã
Truyền thuyết kể rằng từ năm 2879 TCN, nhà nước Xích Quỷ của người Việt đã hình thành, cùng thời với truyền thuyết về Tam Hoàng Ngũ Đế tại Trung Quốc. Tuy nhiên, đây chỉ là truyền thuyết dân gian, các nghiên cứu khảo cổ hiện chưa tìm được bằng chứng nào cho thấy nhà nước này từng tồn tại.
Đến thời kỳ đồ sắt, vào khoảng thế kỷ 8 TCN đã xuất hiện nhà nước đầu tiên của người Việt trên miền Bắc Việt Nam ngày nay. Theo sử sách, đó là Nhà nước Văn Lang của các vua Hùng. Thời kỳ Vua Hùng được nhiều người ghi nhận là quốc gia có tổ chức đầu tiên của người Việt Nam, bắt đầu với truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên mà người Việt Nam tự hào truyền miệng từ đời này qua đời khác.
Thời kỳ Bắc thuộc (179 TCN–938)Bắc thuộc lần 1 (179 TCN–40)Nhà Triệu cai trị (179 – 111 TCN)Xem thêm: Vấn đề chính thống của nhà TriệuXem thêm: Nhà Triệu và Nam Việt
Bắc thuộc là một vấn đề còn có hai quan điểm khác nhau từ xưa đến nay của lịch sử Việt Nam, phần lớn các quan điểm sử học thời phong kiến đều cho rằng nhà Triệu là một triều đại trong lịch sử Việt Nam, vì vậy thời Bắc thuộc bắt đầu từ năm 111 TCN khi nhà Hán đánh chiếm nước Nam Việt. Quan điểm thứ hai được xuất hiện từ thế kỷ 18 khi sử gia Ngô Thì Sĩ phủ nhận nhà Triệu là triều đại chính thống của Việt Nam vì Triệu Đà vốn là người Hoa ở phương Bắc, là tướng theo lệnh Tần Thủy Hoàng mà đánh xuống phương Nam. Quan điểm này được tiếp nối bởi sử gia Đào Duy Anh trong thế kỷ 20, các sách lịch sử trong nền giáo dục tại Việt Nam hiện nay đều theo quan điểm này. Theo quan điểm thứ hai này thì thời Bắc thuộc trong lịch sử Việt Nam bắt đầu từ năm 179 TCN khi nhà Triệu đánh chiếm nước Âu Lạc của An Dương Vương.
Cuối thời Tần, Triệu Đà (người nước Triệu thời Chiến Quốc, nay là tỉnh Hà Bắc của Trung Quốc) được nhà Tần bổ nhiệm là Huyện lệnh huyện Long Xuyên, sau được Nhâm Ngao tự ý bổ nhiệm làm Quận úy quận Nam Hải (thuộc tỉnh Quảng Đông ngày nay).
Nhân khi nhà Tần rối loạn sau cái chết của Tần Thủy Hoàng (210 TCN), Triệu Đà đã tách ra cát cứ quận Nam Hải, sau đó đem quân thôn tính sáp nhập vương quốc Âu Lạc và quận Quế Lâm lân cận rồi thành lập một nước riêng, quốc hiệu Nam Việt với kinh đô đặt tại Phiên Ngung (nay là thành phố Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông) vào năm 207 TCN.
Nước Nam Việt trong thời nhà Triệu bao gồm khu vực hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây của Trung Quốc và miền Bắc Việt Nam ngày nay. Nam Việt được chia thành 4 quận: Nam Hải, Quế Lâm, Giao Chỉ và Cửu Chân. Biên giới phía bắc là hệ thống dãy núi Ngũ Lĩnh, biên giới phía nam là dãy Hoành Sơn.
Sau khi nhà Hán được thành lập và thống nhất toàn Trung Quốc, Triệu Đà xưng là Hoàng đế của nước Nam Việt để tỏ ý ngang hàng với nhà Tây Hán. Trong khoảng thời gian 68 năm (179 TCN – 111 TCN), miền Bắc Việt Nam hiện nay là một phần của nước Nam Việt, nước này có vua là người Trung Hoa và vị vua này không công nhận sự cai trị của nhà Hán.
Năm 111 TCN, đội quân của Hán Vũ Đế xâm chiếm nước Nam Việt và sáp nhập Nam Việt vào đế chế Hán. Người Trung Quốc muốn cai quản miền châu thổ sông Hồng để có điểm dừng cho tàu bè đang buôn bán với Đông Nam Á[11]. Trong thế kỷ 1, các tướng Lạc Việt vẫn còn được giữ chức, nhưng Trung Quốc bắt đầu chính sách đồng hóa các lãnh thổ bằng cách tăng thuế và cải tổ luật hôn nhân để biến Việt Nam thành một xã hội phụ hệ để dễ tiếp thu quyền lực chính trị hơn.
Hai Bà Trưng (40–43)
Một cuộc khởi nghĩa do Hai Bà Trưng lãnh đạo đã nổ ra ở quận Giao Chỉ, tiếp theo sau đó là các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố và các địa phương khác của vùng Lĩnh Nam (mà theo cổ sử Việt ghi nhận là có tất cả 65 thành trì) hưởng ứng trong năm 40. Sau đó, nhà Hán phái tướng Mã Viện sang đàn áp cuộc khởi nghĩa này. Sau 3 năm giành độc lập, cuộc khởi nghĩa bị tướng Mã Viện đàn áp. Do bị cô lập và quân đội chưa tổ chức hoàn thiện nên Hai Bà Trưng không đủ sức chống cự lại quân do Mã Viện chỉ huy. Hai Bà Trưng đã tự vẫn trên dòng sông Hát để giữ vẹn khí tiết.
Bắc thuộc lần 2 (43–544)
Tiếp theo sau nhà Hán, các triều đại phong kiến Trung Quốc kế tiếp khác như Đông Ngô, nhà Tấn, Lưu Tống, Nam Tề, nhà Lương lần lượt thay nhau đô hộ Việt Nam, người Việt cũng đã nhiều lần nổi dậy chống lại sự cai trị của ngoại bang, tuy nhiên tất cả đều không thành công cho mục tiêu giành độc lập.
Các cuộc nổi dậy tiêu biểu như khởi nghĩa anh em Triệu Quốc Đạt và Triệu Thị Trinh vào thời thuộc Đông Ngô. Cuộc nổi dậy của anh em Lý Trường Nhân và Lý Thúc Hiến từ thời bắc thuộc Lưu Tống, Nam Tề từ năm 468 đến 485.
Nhà Tiền Lý (544–602)
Năm 541, Lý Bí nổi dậy khởi nghĩa, đã đánh đuổi được thứ sử Tiêu Tư nhà Lương, sau 3 lần đánh bại quân Lương những năm kế tiếp, Lý Bí tự xưng đế tức là Lý Nam Đế, lập ra nước Vạn Xuân vào năm 544. Đến năm 545, nhà Lương cử Trần Bá Tiên và Dương Phiêu sang đánh nước Vạn Xuân, Lý Nam Đế bị thua trận, giao lại binh quyền cho Triệu Quang Phục. Sau khi Lý Nam Đế mất, Triệu Quang Phục đánh đuổi được quân Lương vào năm 550, bảo vệ được nước Vạn Xuân. Ông tự xưng là Triệu Việt Vương, đến năm 571, một người cháu của Lý Nam Đế là Lý Phật Tử đã cướp ngôi Triệu Việt Vương, tiếp tục giữ được sự độc lập cho người Việt thêm 20 năm nữa cho đến khi nhà Tùy sang đánh năm 602.
Bắc thuộc lần 3 (602–923 hoặc 930)
Kế tiếp nhà Tùy, nhà Đường đô hộ Việt Nam gần 300 năm. Trung Quốc đến thời Đường đạt tới cực thịnh, bành trướng ra 4 phía, phía bắc lập ra An Bắc đô hộ phủ, phía đông đánh nước Cao Ly lập ra An Đông đô hộ phủ, phía tây lập ra An Tây đô hộ phủ và phía nam lập ra An Nam đô hộ phủ, tức là lãnh thổ nước Vạn Xuân cũ.
Trong thời kỳ thuộc nhà Đường, đã nổ ra các cuộc khởi nghĩa chống Bắc thuộc của người Việt như khởi nghĩa Lý Tự Tiên và Đinh Kiến, khởi nghĩa Mai Hắc Đế, khởi nghĩa Phùng Hưng và khởi nghĩa Dương Thanh từ cuối thế kỷ VII đến thế kỷ IX.
Từ sau loạn An Sử (756–763), nhà Đường suy yếu và bị mất thực quyền kiểm soát với nhiều địa phương do các phiên trấn cát cứ, không kiểm soát nổi phía nam. An Nam đô hộ phủ bị các nước láng giềng Nam Chiếu, Chăm Pa, Sailendra vào cướp phá và giết hại người bản địa rất nhiều, riêng Nam Chiếu đã giết và bắt đến 15 vạn người, quân Đường bị đánh bại nhiều lần. Tới năm 866, nhà Đường kiểm soát trở lại và đổi gọi là Tĩnh Hải quân.
Cuối thế kỷ IX, nhà Đường bị suy yếu trầm trọng sau cuộc nổi loạn của Hoàng Sào và các chiến tranh quân phiệt tại Trung Quốc. Tại Việt Nam, năm 905, một hào trưởng địa phương người Việt là Khúc Thừa Dụ đã chiếm giữ thủ phủ Đại La, bắt đầu thời kỳ tự chủ của người Việt.
Ảnh hưởng đến văn hóa Việt Nam
Các triều đại này cố gắng đồng hóa dân tộc Việt Nam theo tộc Hán. Tuy vậy, mặc dù chịu nhiều ảnh hưởng về tổ chức thể chế chính trị, xã hội, văn hóa của Trung Quốc, nhưng người Việt Nam vẫn giữ được nhiều bản chất nền tảng văn hóa dân tộc vốn có của mình sau một nghìn năm đô hộ.[12]
Người Việt cũng chịu ảnh hưởng của Phật giáo Đại thừa đang phát triển ở Đông Á, mặc dù lúc đó Đông Nam Á đã chịu ảnh hưởng của Ấn Độ giáo và Phật giáo Nguyên thủy. Phật giáo Đại thừa được hòa trộn với Nho giáo, Lão giáo và thêm vào đó là các tín ngưỡng dân gian địa phương[13].
Thời kỳ tự chủ (905–938)Họ Khúc (905–923 hoặc 930)
Năm 905, Khúc Thừa Dụ đã xây dựng chính quyền tự chủ của người Việt nhân khi nhà Đường suy yếu, đặt nền móng cho nền độc lập của Việt Nam.
~ CHÚC BẠN HỌC TỐT ~
Cho mình xin câu trả lời hay nhất