Viết một đoạn văn thuyết minh về Phú Sông Bạch Đằng

By Caroline

Viết một đoạn văn thuyết minh về Phú Sông Bạch Đằng

0 bình luận về “Viết một đoạn văn thuyết minh về Phú Sông Bạch Đằng”

  1. Nhắc đến triều đại nhà Trần, ta không thể không nhắc đến một nhân vật lớn, nhân vật có tầm ảnh hưởng sâu sắc đến nhân dân là Trương Hán Siêu. Ông là một người có trình độ học vấn vô cùng sâu rộng, uyên bác, lại trải qua những bốn đời vua nhà Trần là Anh Tông, Minh Tông, Hiến Tông và Dụ Tông và cả hai cuộc chiến chống quân Nguyên xâm lược, ông đã đóng góp rất nhiều cho nhà Trần, được các vị vua thời này tôn kính như một bậc thầy.

    Trương Hán Siêu cũng là người biên soạn nhiều tác phẩm nổi tiếng, là những áng văn bất hủ mỗi khi nhắc lại. Đó là Bạch Đằng Giang phú, Linh tế thập kỉ, Quang Nghiêm Tự bi văn… Năm 1308, ông được bổ nhiệm làm Hàn lâm học sĩ ở đời vua Trần Anh Tông. Đến đời vua Trần Minh Tông, ông giữ chức hành khiển, làm Môn hạ hữu ty lan tông ở đời Trần Hiến Tông năm 1339. Và đến năm 1342, vào đời vua Trần Dụ Tông thì ông giữ chức Tả ty lang trung kiêm Kinh lược. Vào tháng 11 năm 1353, Trương Hán Siêu xin cáo bệnh về quê nhưng chưa kịp đến kinh sư thì ông mất. Sau khi ông mất, vua đã truy tặng cho ông các chức danh lần lượt là hàm thái bảo và thái phó. Năm 1972 được thờ tại Văn miếu Quốc tử giám. Trong suốt cuộc đời của mình, Trương Hán Siêu đã nhiều lần được giữ những chức vụ quan trọng và đóng góp đáng kể cho đất nước. Kể cả cho đến khi ông mất thì vua và các quan trong triều cũng vô cùng đau xót, truy tặng cho ông những danh huy chương đáng giá. Đặc biệt, việc Trương Hán Siêu được thờ tại Văn miếu Quốc tử giám sau khi ông mất cho thấy sự coi trọng của quân vương đối với ông. Vai trò của Trương Hán Siêu đối với đất nước được ví như những bậc hiền triết thời xưa.

    Những tác phẩm của Trương Hán Siêu thường là những áng văn bất hủ, thể hiện tình yêu quê hương, đất nước và lòng tự hào dân tộc. Một trong những nét điển hình cho phong cách của Trương Hán Siêu là cái nhìn về lịch sử, mang dấu ấn hoài niệm, hoài cổ nhưng vẫn đầy trữ tình. Và bài Bạch Đằng Giang Phú (Phú sông Bạch Đằng) chính là một tác phẩm minh chứng cho điều này.

    Sau khi cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông kết thúc thắng lợi, cuộc sống tiếp diễn bình thường thì 50 năm sau, Trương Hán Siêu sáng tác bài Phú sông Bạch Đằng, bài thơ là nỗi niềm hoài niệm của tác giả về một thời kỳ lịch sử vàng son, chói lọi của dân tộc. Sông Bạch Đằng là chứng nhân lịch sử, cùng đồng hành với những sự kiện nổi tiếng như: Chiến thắng quân Nguyên Mông năm 938 của Ngô Quyền, Chiến thắng quân Nguyên Mông năm 1288 của Trần Hưng Đạo. Tác phẩm được viết theo thể phú, một thể văn xuất phát từ Trung Quốc. Thể loại này thường được viết bằng văn vần hoặc văn xuôi xen lẫn văn vần. Nội dung kể về những sự việc khách quan trong cuộc sống, từ những sự vật, những phong tục, tập quán…. Về nghệ thuật của tác phẩm thì đây là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất, đỉnh cao nhất của thể loại thơ phú. Bằng tài năng tả cảnh, bút pháp trữ tình đan xen giọng kể mang tính sử thi của tác giả, con sông Bạch Đằng đã hiện lên với những chiến tích lịch sử oanh liệt, hào hùng. Qua đó mà ta thấy thêm tự hào về lịch sử của dân tộc, đồng thời cũng cảm nhận được tình yêu nước, nỗi niềm hoài cổ của tác giả.

    Đoạn trích Phú sông Bạch Đằng được chia làm bốn phần. Phần 1 là những cảm xúc trước cảnh sông Bạch Đằng của người khách:

    “Khách có kẻ:
    Chèo quế bơi trăng
    Buồm mây giong gió
    Sớm ngọn Tương kia
    Chiều hang Vũ nọ
    Vùng vẫy Giang, Hồ
    Tiêu dao Ngô, Sở
    Ði cho biết đây
    Ði cho biết đó

    Chằm Vân, Mộng chứa ở trong kho tư tưởng, đã biết bao nhiêu:

    Mà cái chí khí tứ phương, vẫn còn hăm hở
    Mới học thói Tử Trường
    Bốn bể ngao du
    Qua cửa Ðại Thần
    Sang bến Ðông Triều
    Ðến sông Bạch Ðằng
    Ðủng đỉnh phiếm chu
    Trắng xoá sóng kình muôn dặm
    Xanh rì dặng ác một màu
    Nước trời lộn sắc
    Phong cảnh vừa thu
    Ngàn lau quạnh cõi
    Bến lách đìu hiu
    Giáo gãy đầy sông
    Cốt khô đầy gò
    Ngậm ngùi đứng lặng
    Ngắm cuộc phù du
    Thương kẻ anh hùng đâu vắng tá?
    Mà đây dấu vết vẫn còn lưu”

    Tác giả đã hóa thân vào nhân vật khách trong một tâm thế dạo chơi, thưởng thức phong cảnh của đất nước. Tác giả đã nêu ra những địa danh của Việt Nam như: cửa Đại Than, bến Đông Triều, sông Bạch Đằng… và cả những địa danh của Trung Quốc: Nguyên, Tương, Vũ Huyệt, Tam Ngô…. Cho thấy vốn hiểu biết sâu rộng cùng với lòng tự hào, tình yêu của Trương Hán Siêu đối với đất nước.

    Phần hai nói về những chiến công lịch sử của sông Bạch Đằng được thuật lại qua lời kể của các bô lão:

    “Bên sông bô lão, hỏi ý ta sở cầu?
    Có lẻ gậy lê chống trước, có người thuyền nhẹ bơi sau,
    Vái ta mà thưa rằng:
    Đây là chiến địa buổi Trùng Hưng Nhị Thánh bắt Ô Mã,
    Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Tháo.
    Đương khi ấy:
    Thuyền bè muôn đội, tinh kỳ phấp phới.
    Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói.
    Trận đánh được thua chửa phân,
    Chiến lũy bắc nam chống đối.
    Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,
    Bầu trời đất chừ sắp đổi.
    Kìa: Tất Liệt thế cường, Lưu Cung chước dối,
    Những tưởng gieo roi một lần,
    Quét sạch Nam bang bốn cõi!
    Thế nhưng: Trời cũng chiều người,
    Hung đồ hết lối!
    Khác nào như khi xưa:
    Trận Xích Bích quân Tào Tháo tan tác tro bay,
    Trận Hợp Phì Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.
    Đến nay nước sông tuy chảy hoài,
    Mà nhục quân thù không rửa nổi!
    Tái tạo công lao, nghìn xưa ca ngợi.”

    Thái độ của các bô lão đối với nhân vật khách thể hiện sự hiếu khách và nhiệt tình. Họ là những người đại diện cho cả một thế hệ đi trước, những người chứng kiến các cột mốc chói lọi khi xưa. Những lời kể của các bô lão về trận đánh làm hiện ra sự thất bại nhục nhã của quân giặc và chiến thắng oanh liệt của quân dân ta.

    Phần 3 là lời nhận xét, bình luận về chiến công trên sông Bạch Đằng:

    “Tuy nhiên: Từ có vũ trụ, đã có giang san.
    Quả là: Trời đất cho nơi hiểm trở,
    Cũng nhờ: Nhân tài giữ cuộc điện an.
    Hội nào bằng hội Mạnh Tân: Như vương sư họ Lã,
    Trận nào bằng trận Lưu Thủy: Như quốc sĩ họ Hàn.
    Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng,
    Bởi Đại Vương coi thế giặc nhàn.
    Tiếng thơm còn mãi, bia miệng không mòn.
    Đến bên sông chừ hổ mặt,
    Nhớ người xưa chừ lệ chan.”

    Lời bình luận của các bô lão về những chiến tích lịch sử gợi ra nguyên nhân thắng lợi của dân tộc. Đó là nhờ vào việc hội tụ đầy đủ các yếu tố từ con người, thời điểm, hoàn cảnh….

    Và phần cuối cùng, tác giả thể hiện sự ca ngợi con người với những chiến công và tầm vóc của họ:

    “Rồi vừa đi vừa ca rằng:
    Sông Đằng một giải dài ghê,
    Luồng to sóng lớn dồn về bể Đông.
    Những người bất nghĩa tiêu vong,
    Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh.
    Khách cũng nối tiếp mà ca rằng:
    Anh minh hai vị Thánh quân,
    Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.
    Giặc tan muôn thủa thanh bình,
    Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao.”

    Lời khẳng định của tác giả cho thấy đường lối tài tình của nhà Trần. Tác giả khẳng định vai trò to lớn của con người trong cuộc chiến, thể hiện niềm tự hào, lời ngợi ca của dân tộc đối với những con người trong lịch sử, họ đã dựng nước và giữ nước bằng cả tấm lòng yêu quê hương của mình.

    Tác phẩm Phú sông Bạch Đằng không chỉ có ý nghĩa và giá trị đối với riêng nhà Trần. Nó còn có ý nghĩa và giá trị đối với nền văn học trung đại Việt Nam và xa hơn là còn được lưu giữ đến tận hiện tại. Qua đó thấy được tài năng của tác giả và thêm hiểu biết về lịch sử của đất nước ta. Đọc tác phẩm, ta thấy trân trọng những giá trị mà người xưa để lại, từ đó mà không ngừng nỗ lực cống hiến cho đất nước để đất nước ngày càng phát triển, vươn xa ra thế giới.

    Trả lời
  2.  ” Phú Sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu là một trong những tác phẩm hay và tiêu biểu của thể phú thể hiện rõ tinh thần yêu nước và niềm tự hào, tự tôn dân tộc của tác giả . Sông Bạch Đằng trong bài phú trước hết là một con sông với cảnh quan hùng vĩ: “Bát ngát sóng kình muôn dặm”. Vì rộng “bát ngát” và dài “muôn dặm” cho nên sông Bạch Đằng không chỉ là đại giang mà còn là trường giang với bao lớp sóng cuồn cuộn triều dâng. Thế nhưng, ngoài vẻ đẹp hùng vĩ, sông Bạch Đằng còn hiện lên với vẻ đẹp duyên dáng, thơ mộng : mùa thu nước xanh trong, thuyền trôi dập dềnh trên sông tạo nên một khung cảnh rất đỗi nên thơ. Con sông này đã ghi dấu biết bao chiến tích của lịch sử, là chứng nhân của thời gian chứng kiến bao trận chiến oai hùng trên Bạch Đằng giang.  Đây là nơi diễn ra bao trận đánh, chứng kiến ta thắng lợi vẻ vang nhưng cũng là nơi nhìn thấu những hy sinh, mất mát. Những “giáo gãy”, “xương khô”, “trời nước”, “lau lách đìu hiu” như gợi lên nỗi đau buồn, xót thương. Chính vì thế mà người hôm nay không khỏi tiếc thương cho những anh hùng đã khuất . Tuy có đau buồn nhưng cảm hứng chủ đạo của bài phú là sự ngợi ca chiến công lẫy lừng của cha ông ta trên dòng sông lịch sử này. Qua lời thơ của tác giả , người đọc như thấy hiện lên trước mắt mình là không khí hào hùng của trận đánh với sự đông đảo của lực lượng tham chiến và sự dữ dội của cuộc chiến “thư hùng chưa phân” khiến cho cả trời đất mờ mịt, như sắp đổi dời. Cả bô lão và lữ khách đều phải thán phục , ngợi ca trước chiến công oanh liệt của nhân dân ta trên dòng sông lịch sử . Có thể nói rằng, “Phú sông Bạch Đằng” là một bài ca yêu nước, tràn đầy tinh thần tự hào dân tộc.Bài phú đã khiến người đọc thêm phần tự hào về non sông hùng vĩ và biết ơn sâu sắc thế hệ cha ông đã gìn giữ cho đất nước thanh bình hôm nay. Đó cũng là giá trị sâu sắc mà bài phú mang đến cho bạn đọc, đánh thức trong tâm hồn những người trẻ hôm nay phải có trách nhiệm và tình yêu với đất nước 

    Trả lời

Viết một bình luận