Có ý kiến cho rằng : bi kịch đau đớn lớn nhất của chí phèo là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Bằng hiểu biết về nhân vật chí phèo hãy làm sáng tỏ

Có ý kiến cho rằng : bi kịch đau đớn lớn nhất của chí phèo là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Bằng hiểu biết về nhân vật chí phèo hãy làm sáng tỏ ý kiến trên
Mong mng giúp em với ạ mai em thi rùi huhu

0 bình luận về “Có ý kiến cho rằng : bi kịch đau đớn lớn nhất của chí phèo là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Bằng hiểu biết về nhân vật chí phèo hãy làm sáng tỏ”

  1. Khi Chí Phèo “ngật ngưỡng bước ra từ những trang sách của Nam Cao, thì người ta liền nhận ra rằng đây mới là hiện thân đầy đủ những gì gọi lũ khốn khổ, tủi nhục nhất của người dân cày ở một nước thuộc địa, bị cào xé, bị huỷ hoại từ nhân tính đến nhân hình. Chị Dậu bán con, bán chó, bán sữa nhưng chị vần còn được là con người. Chí Phèo phải bán cả diện mạo và linh hồn của mình để trở thành con quỷ dữ’ (Giáo sư Nguyễn Đãng Mạnh). Trong muôn vàn nỗi khốn khổ tủi nhục mà Chí đã nếm trải, không thể không chú ý đến cái bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của y. Đó cũng là chủ đề xuyên suốt tạo nên giá trị nhân dạo, giá trị hiện thực của tác phẩm “Chí Phèo”.

    “Bi kịch là tình cảnh éo le đầy đau thương, bế tắc chưa có lối thoát mà con người phải chịu đựng”. Hiểu theo ý nghĩa ấy, số phận Chí Phèo là một chuỗi dài bi kịch mà bi kịch sau bao giờ cũng đau đớn hơn bi kịch trước. Nhiều người khẳng định, Chí xuất hiện sau tiếng chửi, điều ấy đúng! Nhưng có lẽ chưa đủ; Nam Cao thường giới thiệu với người đọc ở giai đoạn quan trọng nhất của số phận nhân vật.

    Đọc những dòng đầu tiên của tác phẩm, độc giả thấy xuất hiện một nhân vật chưa nêu tên. dường như chỉ có một hành động, một cuộc độc thoại. Nhờ biện pháp nghệ thuật tăng cấp, như những câu văn ngắn, nhịp văn gấp, tưởng chừng như các câu văn bị xé rách, bị cắt vụn mà người đọc có các cảm giác được chứng kiến tận mắt sự quần quại của Chí trong cơn đau bị cự tuyệt quyền làm người. Chí chửi trời (đấng tối cao của muôn loài). Chí chửi làng “cái cộng đồng gần gũi, thiêng liêng của con người”… Nhưng không ai lên tiếng cả. Người ta không lên tiếng vì người ta không công nhận Chí là người. Cả làng Vũ Đại không ai hiểu Chí; giá có một người để chửi nhau, có lẽ Chí còn đỡ khổ. Bời vì người ta sống – dù là để chửi nhau cũng không thể chửi một mình. Chí chỉ còn biết chửi người đẻ ra y. Chửi người đẻ ra mình thì cùng là chửi chính bản thân. Tiếng chửi của Chí thể hiện sự vật vã, dẫu là vô ý thức, để tìm ra căn nguyên của đau khổ. Nhưng khốn khổ thay, Chí càng chửi càng bế tắc. Giá như ngày ấy ở làng Vũ Đại có một người lên tiếng, cũng như sau đó, Thị Nở “không chỉ biết cho mà còn biết giữ… Giá như… giá như… chỉ cần một lần giá như xảy ra, chỉ cần một trong hàng nghìn người làng Vũ Đại coi Chí là người thì tấn bi kịch của đời Chí sẽ có cơ hội không xảy ra. Nhưng chuyện gì đã xảy ra thì nó đã xảy ra… Nam Cao ngược dòng thời gian trở lại với quá khứ để dẫn dắt người đọc, giúp họ thấu hiểu quá trình bị cự tuyệt quyền làm người từ thấp đến cao của Chí, đồng thời, ông cũng chỉ rõ căn nguyên dẫn Chí đến tình trạng ấy.

    Chí là một “đứa con hoang”, “một anh đi thả ống lươn (…) một buổi sáng tinh sương đã thấy hắn trần truồng và xám ngắt trong cái váy đụp để bên một lò gạch bỏ không, anh ta rước lấy và mang cho một người đàn bà goá bụa”. Các từ “một” tồn tại trong một câu văn dài, dường như đã báo trước cuộc đời cô độc triền miên của Chí. Ngay từ khi cất tiếng khóc chào đời, Chí đã bị người mẹ, người đời cự tuyệt quyền làm người. Chí trử thành kẻ không cha, không mẹ; cũng may cho đời Chí, có lẽ vì lớn lên cùng với những người lao động, Chí trở thành anh canh điền khoẻ mạnh, biết tự trọng, “biết không thích những cái gì mà người ta khỉnh”. Anh khao khát “có một gia đinh nho nhỏ, chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải”. Nhưng đời đã không dành cho Chí cái mà anh có thế với trong tầm tay.

    Một cơn ghen vu vơ của cụ Bá đã đẩy Chí vào tù. Các thế lực phong kiến cấu kết với nhà tù thực dân tước bỏ quyền tự do của Chí gần bảy – tám năm. Đây là lần thứ hai Chí bị cự tuyệt quyền làm người. Nhà tù đã biến Chí thành con người khác. “Hắn vé lần này trông khác hẳn”. Quyền làm người của Chí bị cự tuyệt bởi nhà tù đã cướp di của y một phần nhân hình, ở tù ra trông hắn như một thằng “sắng đá” (lính tẩy), đầu trọc lốc, răng cạo trắng hớn, mặt đen lại rất “cơng cơng”. “Hắn mặc quần áo nái đen với cái áo tây vàng, cái ngực phanh ra đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ trông gớm chết”. Đó là hình hài của kẻ côn đồ, hung hãn chỉ biết gây gổ, đâm chém, về làng hôm trước, hôm sau, Chí đã điên cuồng lao vào trả thù Bá Kiến bằng cách ăn vạ, chửi đổng. Nếu như trả thù là cái quyền của người có thù (Oán thì trả oán, ân thì trả ân) thì Bá Kiến đã khéo léo tước luôn quyển ấy của Chí. Không trả thù được, Chí lại từng bước trở thành tay sai cho kẻ thù, trở thành công cụ mù quáng của Bá Kiến. Hắn chỉ còn biết rạch mặt, ăn vạ để đòi tiền, để đâm chém những ai không cùng phe cánh với cụ Bá. Từ đó, hắn chìm trong cơn say, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say và đánh nhau trong cơn say, “Hắn đã phá tan bao nhiêu gia đình, đập vỡ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt bao nhiêu người lương thiện”. Cứ như thế đời hắn trượt dài. Nhìn vào mặt hắn người ta không biết hắn bao nhiêu tuổi. Đời hắn đã xem như đời bỏ đi, nhân hình bị huỷ hoại, nhân tính bị xói mòn. Cá làng Vũ Đại đều tránh mặt, mỗi lần hắn qua. Ngay bản thân thân hắn cũng đã quên sự có mặt của hắn ở trên đời. Có thể nói, trước khi gặp Thị Nở, Chí đã bị cự tuyệt quyền làm người đến cao độ. Nhưng có lẽ hắn không nhận ra điều ấy hoặc nhận ra một cách vô thức, không tìm thấy lối thoát, Chí đành phải dấn thân vào cuộc đời say rượu, chửi đổng, ăn vạ, đâm thuê chém mướn.

    Người ta sẽ đỡ khổ, nếu không biết mình sống trong cái khổ. Người ta sẽ đỡ đau đớn khi bị tước quyền làm người mà không hề hay biết. Trước khi gặp Thị Nở, Chí Phèo chưa nhận thức được tấn bi kịch của đời mình. Chí đâu có biết chính xã hội thực dân phong kiến chẳng những đã sinh ra Chí mà còn nuôi dưỡng tính côn đồ hung hãn của Chí bằng cách tước đoạt dần quyền làm người của y. Đúng lúc Chí dấn thân đến chỗ tột cùng của sự tha hóa, đúng lúc người ta tưởng Chí sẽ triền miên trong cuộc đời một con quỷ dữ thì Nam Cao đã phát hiện trong chiều sâu tâm linh của nhân vật một đốm lửa nhỏ nhoi bừng sáng. Chí ao ước trở lại làm người lương thiện. Vai trò, vị trí của Thị Nở trong tác phẩm là rất quan trọng. Con người “dở hơi, xấu ma chê quỷ hờn”, lại là nguồn sáng duy nhất còn lại ở làng Vũ Đại có thể chiếu sáng cõi đời tăm tối của Chí. Cơ thể đàn bà của Thị không khơi gợi bản năng thú vật ở y. Tình thương của Thị đã gợi dậy cái tính người mà lâu nay Chí đã đánh mất. Sau cuộc tình ngắn ngủi với Thị Nở, Chí nghe được âm thanh của cuộc sống mà lâu nay hắn không để ý. Sau bao nhiêu năm, bây giờ hắn mới nghe thấy tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng cười nói của người đi chợ, tiếng thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những âm thanh ấy gợi nhớ trong Chí những ước mơ rất người đã có từ thuở xa xưa. Lần đầu tiên Chí cảm thấy buồn, rồi hắn “sợ tuổi già, đói rét. ốm đau và cô độc – cô dộc còn sợ hơn đói rét và ốm đau”. Bát cháo hành của Thị Nở đã đánh thức trong Chí những tình cảm lành mạnh. Ăn cháo mà hắn thấy mắt ươn ướt. Chí cần một sự thương yêu – dù là tình yêu của kẻ dở hơi, của một người con gái quá lứa lỡ thì, có dòng giống ma hủi, cũng dủ làm sống lại bản tính người đã chết. Sức cảm hóa của tình thương vô biên. Nam Cao đã thực sự hóa thân vào nhân vật để cảm thông, để chia xẻ những giây phút hạnh phúc rất người của Chí. Thế là sau hơn bốn mươi năm bị cự tuyệt quyền làm người, Chí Phèo đã tự tìm cho mình con đường trở lại làm người. Chí đã tạo ra chiếc cầu nối để làm hòa với thế giới người. Chiếc cầu ấy chính là Thị Nở. Thị có thể sống chung với hắn thì làng Vũ Đại cũng có thể chấp nhận hắn. Nhưng bi kịch và đau đớn thay cho Chí, Thị Nở không thê gắn bó với Chí. Vì theo bà cô Thị, “đàn ông đà chết hết cả rồi hay sao mà lại phải lấy một thằng không cha, không mẹ chỉ biết rạch mặt ăn vạ”.

    Thế là một chút hạnh phúc nhỏ nhoi Chí đã có ở trong tay một lẩn nữa lại bị xã hội kia cướp đoạt. Thị Nở là chiếc cầu vồng sau cơn mưa. Chí đau đớn nghĩ ra rằng chẳng có chiếc cầu nào đưa Chí trớ về với cuộc sống con người, xã hội đã cự tuyệt đến cao độ quyền được sống, được làm người của Chí. Không ai cho Chí làm người lương thiện kể cả khi Chí đòi làm người lương thiện. Chí không thể xoá được những vết sẹo đã vạch lên trên mặt mình. Chí đau xót cảm thấy: “Không được nữa rồi chỉ còn cách này”. Chí chỉ còn một cách là tìm đến cái chết. Chí đã nói câu cuối cùng với Bá Kiến và cũng là tự nói với bản thân mình. Hành động giết Bá Kiến và tự sát của Chí cho người đọc thấy cuối cùng Chí cũng trả được mối thù. Nhưng cái giá phái trả của Chí là quá đắt. Cái chết của Chí là lời tố cáo mạnh mẽ đối với xã hội vô nhân, là lời kêu cứu khẩn thiết về quyền con người. Chí chết, mồm ngáp ngáp trong vũng máu, nhưng Chí không “tuyệt tự”. Sức sống, sức mờ và giá trị điển hình của nhân vật này là vô biên. Chí không chí tiêu biểu cho nổi khổ của người nông dân thời kì nước ta còn sống trong vòng nồ lệ, mà còn thể hiện cho niềm khao khát được làm người, được sống trong lương thiện.

    Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí do nhiều căn nguyên. Có căn nguyên từ xã hội, cũng có căn nguyên từ bản thân Chí. Khi quyền con người bị xúc phạm thì bi kịch của đời những Chí Phèo trong cuộc đời còn được nhắc đến như một nỗi đau của toàn nhân loại

    Bình luận

Viết một bình luận