thắng lợi cách mạng tháng 10 Nga ảnh hưởng như thế nào đến Cách mạng VN lúc bấy giờ?
0 bình luận về “thắng lợi cách mạng tháng 10 Nga ảnh hưởng như thế nào đến Cách mạng VN lúc bấy giờ?”
Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại đã có ảnh hưởng trực tiếp, nhiều mặt đến việc ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, đến hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước, đi lên chủ nghĩa xã hội của nhân dân Việt Nam.
Cách mạng Tháng Mười Nga, trước tiên đã ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc tới Nguyễn Ái Quốc – người thanh niên Việt Nam yêu nước đang bôn ba ở nhiều quốc gia để tìm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp.
Bị thu hút bởi sự kiện lịch sử gây chấn động thế giới, Nguyễn Ái Quốc được tiếp cận với Luận cương của V.I. Lênin “Về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” khi còn ở Pháp. Chính từ trong bản luận cương này Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã tìm ra con đường cứu nước, giải phóng cho dân tộc Việt Nam. Điều đó được thể hiện rõ trong tác phẩm “Đường Kách mệnh” (năm 1927) của Người. Trong tác phẩm này, Người khẳng định: “Chỉ có đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười – con đường duy nhất đúng đắn – cách mạng Việt Nam mới giành được độc lập, tự do thực sự”. Đánh giá Cách mạng Tháng Mười, Nguyễn Ái Quốc viết: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu, hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”(1).
Đến với Cách mạng Tháng Mười và chủ nghĩa xã hội, những người yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX “tựa như người đi đường đang khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn”. Từ “cảm tình” đến niềm tin khoa học, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa xã hội là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi và chính Người đã dẫn dắt nhân dân Việt Nam đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười. Ngay từ khi Đảng còn hoạt động bí mật, mỗi dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười là một dịp sinh hoạt chính trị sâu rộng trong xã hội, là dịp mở rộng ảnh hưởng của Đảng trong nhân dân thông qua công tác tuyên truyền sâu rộng, là dịp đấu tranh chính trị của các chiến sĩ trong nhà tù dưới hình thức tổ chức kỷ niệm… làm cho kẻ thù rất lo sợ, đối phó.
Lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười, chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác – Lênin, những bài học kinh nghiệm của cuộc cách mạng vĩ đại này về nghệ thuật đấu tranh giành và giữ chính quyền,… được Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, đưa cách mạng nước ta vượt qua nhiều khó khăn, liên tục giành được những thắng lợi to lớn. Có thể khái quát ở một số nét lớn sau:
Một là, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.Vai trò lãnh đạo của Đảng được V.I. Lênin vận dụng rất thành công trong Cách mạng Tháng Mười Nga. Nguyễn Ái Quốc khẳng định, muốn giải phóng dân tộc thành công: “cần có sự lãnh đạo của một đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Chỉ có sự lãnh đạo của một đảng biết vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình thì mới có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi và cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công”(2). Trong tác phẩm “Đường Kách mệnh”, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ mục tiêu, vai trò và nhiệm vụ của một đảng cách mạng: “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”(3).
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời vào năm 1930. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã thực hiện thành công Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lật đổ chế độ phong kiến và ách thống trị thực dân. Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa – Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Tiếp đó, sau 9 năm thực hiện cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện chống thực dân Pháp quay trở lại xâm lược, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam đã làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “chấn động địa cầu” vào năm 1954. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam đã hoàn thành tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (năm 1975), đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Hai là, “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”. Nguyễn Ái Quốc luôn khẳng định đoàn kết là một truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam, cần vận động tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân đứng lên chống thực dân đế quốc, giải phóng dân tộc. Do đó, Người đã chủ trương “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết”, “Thành công, thành công, đại thành công”, với nhiều tầng đoàn kết: đoàn kết trong Đảng, đoàn kết toàn dân và đoàn kết quốc tế. Đảng phải chú trọng xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, trong đó tập hợp rộng rãi các tầng lớp xã hội, các giới đồng bào, các dân tộc và tôn giáo,… để huy động sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Lực lượng giai cấp, dân tộc được tập hợp và phát huy sức mạnh trong các đoàn thể cứu quốc, trong Mặt trận Việt Minh, tạo dựng an toàn khu, chiến khu để vừa bảo vệ Đảng, vừa tổ chức và phát triển các đơn vị vũ trang và đội quân chính trị. Tất cả những yếu tố đó tạo nên nguồn lực mạnh mẽ tiến hành khởi nghĩa từng phần, tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền vào ngày 19/8/1945. Sức mạnh của quần chúng có được nhờ phát huy dân chủ rộng rãi, đặc biệt trong điều kiện đã giành được chính quyền, thông qua cả hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp, nhằm tạo cơ sở xã hội vững chắc cho bảo vệ chính quyền non trẻ.
Ba là, chớp thời cơ do điều kiện bên ngoài mang tới. Chiến thắng của Hồng quân Liên Xô và quân đồng minh trên chiến trường châu Âu đánh bại phát xít Đức, quân đồng minh tiến hành phản công trên Mặt trận châu Á – Thái Bình Dương đã tạo thời cơ để nhân dân Việt Nam tiến hành thắng lợi tổng khởi nghĩa giành độc lập. Đó là một cuộc cách mạng tự giải phóng bằng chính nội lực cách mạng dân tộc Việt Nam; kết quả của nghệ thuật tạo lực, lập thế, tranh thời đúng đắn và sáng tạo của Đảng. Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời đã bắt tay vào xây dựng một chế độ xã hội mới theo lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười. “Đi theo con đường do Lênin vĩ đại đã vạch ra, con đường của Cách mạng Tháng Mười, nhân dân Việt Nam đã giành được thắng lợi rất to lớn. Chính vì vậy mà mối tình gắn bó và lòng biết ơn của nhân dân Việt Nam đối với Cách mạng Tháng Mười vẻ vang, đối với Lênin vĩ đại và đối với nhân dân Liên Xô là vô cùng sâu sắc”(4). Những thắng lợi mà nhân dân Việt Nam giành được trong cuộc đấu tranh giành độc lập là nguồn động viên to lớn, mang lại niềm tin thắng lợi, tác động mạnh mẽ đến nhiều dân tộc thuộc địa, bị áp bức đứng lên giành độc lập, tự do và mưu cầu hạnh phúc, dẫn tới sự tan rã của hệ thống thuộc địa trên thế giới.
Những thành quả, đóng góp trong nhiều mặt, đặc biệt là trong việc bảo đảm công bằng, an sinh xã hội, những giá trị nhân văn, nhân đạo,… mà Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đạt được theo lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười là thực tế không thể phủ nhận. Nhân dân thế giới thực sự đang được thừa hưởng những giá trị và di sản mà lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười mang lại.
Sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu là một sự kiện chấn động cuối thế kỷ XX, là tổn thất to lớn đối với lực lượng cách mạng và yêu chuộng hòa bình trên thế giới, tác động to lớn đến cục diện thế giới. Những công kích, xuyên tạc giá trị to lớn của Cách mạng Tháng Mười của các thế lực chống đối, cơ hội chính trị là không công bằng với hiện thực lịch sử. Nhìn nhận một cách tổng thể, có thể thấy việc hạ thấp, phủ nhận vai trò, lý tưởng, mục tiêu của Cách mạng Tháng Mười, cũng như xuyên tạc vai trò của Liên Xô trong chiến tranh thế giới thứ hai, cứu nhân loại khỏi thảm họa phát xít là những “mắt xích” trong công đoạn phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, phủ nhận những chế độ xã hội dựa trên nền tảng tư tưởng chính trị đó.
Nếu như Cách mạng Tháng Mười không nổ ra thì chắc chắn sẽ không có sự ra đời của nước Nga xô-viết, của Liên Xô, của phe xã hội chủ nghĩa và theo lô-gic đó, phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc của các dân tộc thuộc địa, bị áp bức cũng không thể đạt được những thắng lợi như đã diễn ra trong lịch sử. Hệ thống các nước thuộc địa và chế độ thực dân hẳn chưa thể chấm dứt sự tồn tại của mình. Và, khi không có sự tồn tại của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa tư bản trong quá trình phát triển không có đối thủ cạnh tranh sẽ không buộc phải tự điều chỉnh để vượt lên.
Có thể khẳng định rằng, sự sụp đổ của Liên Xô tuyệt đối không đồng nghĩa với sự sụp đổ của những lý tưởng Cách mạng Tháng Mười, mà đó là sự sụp đổ của một mô hình chưa đúng đắn, chưa phù hợp. Sự sụp đổ này có nhiều nguyên nhân. V.I. Lênin đã từng cảnh báo những nguy cơ đe dọa sự tồn tại của chính quyền xô-viết. Những nguy cơ đó đến từ cả hai phía.
Về phía khách quan: đó là sự chống phá của các thế lực thù địch bên ngoài. Sự chống phá đó được thực hiện một cách quyết liệt, quy mô, kiên trì, nhưng hết sức khôn khéo, tinh vi, có bài bản và tự nhiên. Có thể dẫn ở đây một số thí dụ để minh họa. Trong tài liệu “Tấn công tâm lý chống Liên Xô. Những mục tiêu và nhiệm vụ”, đề ngày 10/4/1951, được giải mật vào năm 1976 có đoạn viết “… Nhiệm vụ số 1. Phát hiện và phát triển những giá trị tinh thần, những quan điểm thẩm mỹ và đạo đức của nhân dân Liên Xô, đặc biệt của nhân dân Nga, đồng thời tạo ra sự đồng nhất những giá trị đó với những giá trị của thế giới tự do”(5). Hoặc trong Chỉ lệnh số 68 của Hội đồng An ninh Mỹ được phê chuẩn vào ngày 30/9/1950 xác định “Chúng ta (Mỹ) cần tiến hành cuộc chiến tranh tâm lý công khai nhằm mục đích khơi lên cuộc tạo phản của quần chúng đối với hệ thống xô-viết… Gieo rắc những hạt giống phá hoại từ trong lòng hệ thống xô-viết để buộc Kremli… phải thay đổi đường lối của nó”(6).
Về phía chủ quan: ngay từ trong nội bộ nhà nước xô-viết có nhiều yếu kém, bất cập. Đó là sự thiếu kinh nghiệm, những non kém trong quản lý xã hội của chính quyền xô-viết cùng hệ lụy phát sinh từ những non kém đó; sự chủ quan, duy ý chí, những sai lầm về đường lối, sự xa rời những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin và lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười trong xây dựng chế độ xã hội mới. Ngay sau Cách mạng Tháng Mười thành công, V.I. Lênin đã từng chỉ ra rằng: thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga 1917 chưa phải là thắng lợi cuối cùng và để tới ngày toàn thắng “không lúc nào chúng ta quên rằng, chúng ta đã mắc và còn mắc phải vô số những thất bại và sai lầm”. V.I. Lênin cũng đã cảnh báo “giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền còn khó hơn”. Sự sụp đổ của Liên Xô đã cảnh tỉnh đối với các nước đang tiếp tục kiên định con đường xã hội chủ nghĩa nhận ra những khuyết tật của mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu cũ, rút ra cho mình những bài học quan trọng về đấu tranh để giữ vững chính quyền cách mạng; về xây dựng Đảng cộng sản cầm quyền, trong sạch, vững mạnh, gắn bó mật thiết và luôn chăm lo lợi ích thiết thực của nhân dân lao động, ra sức phát huy dân chủ rộng rãi, bảo đảm quyền con người chân chính; về thực hiện sự bình đẳng giữa các dân tộc; về xây dựng cơ chế quản lý nền kinh tế; về sự kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin và mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở đó, tìm ra các phương pháp, con đường tiếp cận mới để tiếp tục tiến lên, hiện thực hóa một cách sáng tạo lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế.
Vì thế, những tổn thất của chủ nghĩa xã hội hiện thực trong thế kỷ XX không làm suy giảm ý nghĩa lịch sử to lớn và lý tưởng cao đẹp của Cách mạng Tháng Mười. Những lý tưởng cao đẹp của Cách mạng Tháng Mười, như độc lập dân tộc, tự do cho nhân dân, hòa bình, dân chủ, bình đẳng, bác ái cho mọi người, xóa bỏ áp bức, bóc lột, xóa nghèo nàn, lạc hậu, phân biệt chủng tộc… vẫn là những giá trị mà hiện nay nhân loại đang tiếp tục theo đuổi và hướng tới. Lý tưởng Cách mạng Tháng Mười mãi mãi soi rọi cho nhân loại trên con đường đấu tranh vì một thế giới hòa bình, công bằng, dân chủ, bình đẳng và tiến bộ./.
Cách mạng Tháng Mười Nga vẫn là một trong những sự kiện vĩ đại nhất thế kỷ XX, là dấu mốc quan trọng trong lịch sử phát triển nhân loại. Mở ra chương mới trong lịch sử nhân loại khi những người vô sản ở Nga thành lập nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới.
Ngày 7/11/2019 đánh dấu 102 năm kể từ ngày những người Bolshevik giành thắng lợi trong cuộc cách mạng chấn động thế giới cuối năm 1917.
Năm 1917, nước Nga trải qua 2 cuộc cách mạng lớn vào tháng 2 và tháng 10, chấm dứt 200 năm trị vì của Nhà Romanov cũng như chấm dứt vĩnh viễn chế độ quân chủ ở Nga.
Sau những tháng đấu tranh, các thành phần cấp tiến nhất của phái tả Nga khi đó là đảng Bolshevik giành chiến thắng, lật đổ giai cấp tư sản, lần đầu tiên đưa giai cấp công nhân và nông dân lên nắm quyền ở xứ bạch dương.
Lãnh tụ Đảng Bolshevich V. I. Lenin tuyên bố thành lập chính quyền Xô Viết tại Đại hội Xô Viết ngày 7/11/1917 tại điện Smolny ngay sau khi chiếm Cung điện mùa Đông.
Cách mạng Tháng Mười Nga thực chất xảy ra vào tháng 11, Cách mạng Tháng Hai cũng diễn ra vào tháng 3. Nguyên nhân là do khác biệt trong hệ thống lịch.
Cho tới tận năm 1918, Nga vẫn sử dụng lịch cũ, hay lịch Julius do Hoàng đế La Mã Julius Caesar đưa ra từ năm 45 TCN. Lịch Julius lệch so với lịch Gregorius, còn gọi là lịch dương hay lịch mới, khoảng 2 tuần. Một trong những việc đầu tiên mà những người Bolshevik thực hiện sau khi giành chính quyền là chuyển sang dùng lịch mới.
Trên thực tế, sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, chính quyền Xô viết lập tức ban hành Sắc lệnh Hòa bình và Sắc lệnh Ruộng đất để giải quyết những vấn đề nhức nhối nhất ở Nga lúc bây giờ, đồng thời xóa bỏ chế độ phân biệt đẳng cấp, những đặc quyền của giáo hội Chính thống giáo ở Nga và thực hiện chính sách nam nữ bình đẳng.
Trước khi Cách mạng Tháng Mười Nga nổ ra, những người Bolshevik còn ngăn chặn thành công âm mưu thiết lập chế độ độc tài quân sự của tướng Kornilov và điều này khiến uy tín của họ trở nên rất cao. Những người Bolshevik cũng không sợ bất cứ điều gì cả, họ từng bị đặt ra ngoài vòng pháp luật trong nhiều năm và bị chính quyền Đế quốc Nga đàn áp thẳng tay.
Các nhà sử học cũng đánh giá rằng Vladimir Lenin, lãnh tụ của Đảng Bolshevik là lý do khiến những người Bolshevik giành được thắng lợi. Lenin thể hiện ông là nhà cách mạng chăm chỉ và dũng cảm – những bài phát biểu của ông lay động trái tim của người dân Nga lúc bấy giờ, và Lenin đã tổ chức rất tốt Đảng Bolshevik để đảng lãnh đạo cuộc cách mạng đi đến thắng lợi.
Đến mùa Thu năm 1917, người dân Nga tin tưởng Lenin hơn hẳn người đứng đầu Chính phủ Lâm thời Nga Alexander Kerensky, nhân vật được đánh giá là xảo quyệt nhưng kém cỏi. Đó là những lý do chính giúp những người Bolshevik giành thắng lợi trong Cách mạng Tháng Mười Nga.
Ngày 7/11, vào lúc 10 giờ sáng giờ địa phương (14 giờ Hà Nội), cuộc diễu binh kỷ niệm các giá trị của Cách mạng tháng Mười Nga đã bắt đầu trên Quảng trường Đỏ ở thủ đô Moskva, LB Nga.
Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại đã có ảnh hưởng trực tiếp, nhiều mặt đến việc ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, đến hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước, đi lên chủ nghĩa xã hội của nhân dân Việt Nam.
Cách mạng Tháng Mười Nga, trước tiên đã ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc tới Nguyễn Ái Quốc – người thanh niên Việt Nam yêu nước đang bôn ba ở nhiều quốc gia để tìm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp.
Bị thu hút bởi sự kiện lịch sử gây chấn động thế giới, Nguyễn Ái Quốc được tiếp cận với Luận cương của V.I. Lênin “Về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” khi còn ở Pháp. Chính từ trong bản luận cương này Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã tìm ra con đường cứu nước, giải phóng cho dân tộc Việt Nam. Điều đó được thể hiện rõ trong tác phẩm “Đường Kách mệnh” (năm 1927) của Người. Trong tác phẩm này, Người khẳng định: “Chỉ có đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười – con đường duy nhất đúng đắn – cách mạng Việt Nam mới giành được độc lập, tự do thực sự”. Đánh giá Cách mạng Tháng Mười, Nguyễn Ái Quốc viết: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu, hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”(1).
Đến với Cách mạng Tháng Mười và chủ nghĩa xã hội, những người yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX “tựa như người đi đường đang khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn”. Từ “cảm tình” đến niềm tin khoa học, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa xã hội là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi và chính Người đã dẫn dắt nhân dân Việt Nam đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười. Ngay từ khi Đảng còn hoạt động bí mật, mỗi dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười là một dịp sinh hoạt chính trị sâu rộng trong xã hội, là dịp mở rộng ảnh hưởng của Đảng trong nhân dân thông qua công tác tuyên truyền sâu rộng, là dịp đấu tranh chính trị của các chiến sĩ trong nhà tù dưới hình thức tổ chức kỷ niệm… làm cho kẻ thù rất lo sợ, đối phó.
Lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười, chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác – Lênin, những bài học kinh nghiệm của cuộc cách mạng vĩ đại này về nghệ thuật đấu tranh giành và giữ chính quyền,… được Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, đưa cách mạng nước ta vượt qua nhiều khó khăn, liên tục giành được những thắng lợi to lớn. Có thể khái quát ở một số nét lớn sau:
Một là, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Vai trò lãnh đạo của Đảng được V.I. Lênin vận dụng rất thành công trong Cách mạng Tháng Mười Nga. Nguyễn Ái Quốc khẳng định, muốn giải phóng dân tộc thành công: “cần có sự lãnh đạo của một đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Chỉ có sự lãnh đạo của một đảng biết vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình thì mới có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi và cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công”(2). Trong tác phẩm “Đường Kách mệnh”, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ mục tiêu, vai trò và nhiệm vụ của một đảng cách mạng: “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”(3).
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời vào năm 1930. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã thực hiện thành công Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lật đổ chế độ phong kiến và ách thống trị thực dân. Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa – Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Tiếp đó, sau 9 năm thực hiện cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện chống thực dân Pháp quay trở lại xâm lược, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam đã làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “chấn động địa cầu” vào năm 1954. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam đã hoàn thành tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (năm 1975), đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Hai là, “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”. Nguyễn Ái Quốc luôn khẳng định đoàn kết là một truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam, cần vận động tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân đứng lên chống thực dân đế quốc, giải phóng dân tộc. Do đó, Người đã chủ trương “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết”, “Thành công, thành công, đại thành công”, với nhiều tầng đoàn kết: đoàn kết trong Đảng, đoàn kết toàn dân và đoàn kết quốc tế. Đảng phải chú trọng xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, trong đó tập hợp rộng rãi các tầng lớp xã hội, các giới đồng bào, các dân tộc và tôn giáo,… để huy động sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Lực lượng giai cấp, dân tộc được tập hợp và phát huy sức mạnh trong các đoàn thể cứu quốc, trong Mặt trận Việt Minh, tạo dựng an toàn khu, chiến khu để vừa bảo vệ Đảng, vừa tổ chức và phát triển các đơn vị vũ trang và đội quân chính trị. Tất cả những yếu tố đó tạo nên nguồn lực mạnh mẽ tiến hành khởi nghĩa từng phần, tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền vào ngày 19/8/1945. Sức mạnh của quần chúng có được nhờ phát huy dân chủ rộng rãi, đặc biệt trong điều kiện đã giành được chính quyền, thông qua cả hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp, nhằm tạo cơ sở xã hội vững chắc cho bảo vệ chính quyền non trẻ.
Ba là, chớp thời cơ do điều kiện bên ngoài mang tới. Chiến thắng của Hồng quân Liên Xô và quân đồng minh trên chiến trường châu Âu đánh bại phát xít Đức, quân đồng minh tiến hành phản công trên Mặt trận châu Á – Thái Bình Dương đã tạo thời cơ để nhân dân Việt Nam tiến hành thắng lợi tổng khởi nghĩa giành độc lập. Đó là một cuộc cách mạng tự giải phóng bằng chính nội lực cách mạng dân tộc Việt Nam; kết quả của nghệ thuật tạo lực, lập thế, tranh thời đúng đắn và sáng tạo của Đảng. Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời đã bắt tay vào xây dựng một chế độ xã hội mới theo lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười. “Đi theo con đường do Lênin vĩ đại đã vạch ra, con đường của Cách mạng Tháng Mười, nhân dân Việt Nam đã giành được thắng lợi rất to lớn. Chính vì vậy mà mối tình gắn bó và lòng biết ơn của nhân dân Việt Nam đối với Cách mạng Tháng Mười vẻ vang, đối với Lênin vĩ đại và đối với nhân dân Liên Xô là vô cùng sâu sắc”(4). Những thắng lợi mà nhân dân Việt Nam giành được trong cuộc đấu tranh giành độc lập là nguồn động viên to lớn, mang lại niềm tin thắng lợi, tác động mạnh mẽ đến nhiều dân tộc thuộc địa, bị áp bức đứng lên giành độc lập, tự do và mưu cầu hạnh phúc, dẫn tới sự tan rã của hệ thống thuộc địa trên thế giới.
Những thành quả, đóng góp trong nhiều mặt, đặc biệt là trong việc bảo đảm công bằng, an sinh xã hội, những giá trị nhân văn, nhân đạo,… mà Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đạt được theo lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười là thực tế không thể phủ nhận. Nhân dân thế giới thực sự đang được thừa hưởng những giá trị và di sản mà lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười mang lại.
Sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu là một sự kiện chấn động cuối thế kỷ XX, là tổn thất to lớn đối với lực lượng cách mạng và yêu chuộng hòa bình trên thế giới, tác động to lớn đến cục diện thế giới. Những công kích, xuyên tạc giá trị to lớn của Cách mạng Tháng Mười của các thế lực chống đối, cơ hội chính trị là không công bằng với hiện thực lịch sử. Nhìn nhận một cách tổng thể, có thể thấy việc hạ thấp, phủ nhận vai trò, lý tưởng, mục tiêu của Cách mạng Tháng Mười, cũng như xuyên tạc vai trò của Liên Xô trong chiến tranh thế giới thứ hai, cứu nhân loại khỏi thảm họa phát xít là những “mắt xích” trong công đoạn phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, phủ nhận những chế độ xã hội dựa trên nền tảng tư tưởng chính trị đó.
Nếu như Cách mạng Tháng Mười không nổ ra thì chắc chắn sẽ không có sự ra đời của nước Nga xô-viết, của Liên Xô, của phe xã hội chủ nghĩa và theo lô-gic đó, phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc của các dân tộc thuộc địa, bị áp bức cũng không thể đạt được những thắng lợi như đã diễn ra trong lịch sử. Hệ thống các nước thuộc địa và chế độ thực dân hẳn chưa thể chấm dứt sự tồn tại của mình. Và, khi không có sự tồn tại của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa tư bản trong quá trình phát triển không có đối thủ cạnh tranh sẽ không buộc phải tự điều chỉnh để vượt lên.
Có thể khẳng định rằng, sự sụp đổ của Liên Xô tuyệt đối không đồng nghĩa với sự sụp đổ của những lý tưởng Cách mạng Tháng Mười, mà đó là sự sụp đổ của một mô hình chưa đúng đắn, chưa phù hợp. Sự sụp đổ này có nhiều nguyên nhân. V.I. Lênin đã từng cảnh báo những nguy cơ đe dọa sự tồn tại của chính quyền xô-viết. Những nguy cơ đó đến từ cả hai phía.
Về phía khách quan: đó là sự chống phá của các thế lực thù địch bên ngoài. Sự chống phá đó được thực hiện một cách quyết liệt, quy mô, kiên trì, nhưng hết sức khôn khéo, tinh vi, có bài bản và tự nhiên. Có thể dẫn ở đây một số thí dụ để minh họa. Trong tài liệu “Tấn công tâm lý chống Liên Xô. Những mục tiêu và nhiệm vụ”, đề ngày 10/4/1951, được giải mật vào năm 1976 có đoạn viết “… Nhiệm vụ số 1. Phát hiện và phát triển những giá trị tinh thần, những quan điểm thẩm mỹ và đạo đức của nhân dân Liên Xô, đặc biệt của nhân dân Nga, đồng thời tạo ra sự đồng nhất những giá trị đó với những giá trị của thế giới tự do”(5). Hoặc trong Chỉ lệnh số 68 của Hội đồng An ninh Mỹ được phê chuẩn vào ngày 30/9/1950 xác định “Chúng ta (Mỹ) cần tiến hành cuộc chiến tranh tâm lý công khai nhằm mục đích khơi lên cuộc tạo phản của quần chúng đối với hệ thống xô-viết… Gieo rắc những hạt giống phá hoại từ trong lòng hệ thống xô-viết để buộc Kremli… phải thay đổi đường lối của nó”(6).
Về phía chủ quan: ngay từ trong nội bộ nhà nước xô-viết có nhiều yếu kém, bất cập. Đó là sự thiếu kinh nghiệm, những non kém trong quản lý xã hội của chính quyền xô-viết cùng hệ lụy phát sinh từ những non kém đó; sự chủ quan, duy ý chí, những sai lầm về đường lối, sự xa rời những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin và lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười trong xây dựng chế độ xã hội mới. Ngay sau Cách mạng Tháng Mười thành công, V.I. Lênin đã từng chỉ ra rằng: thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga 1917 chưa phải là thắng lợi cuối cùng và để tới ngày toàn thắng “không lúc nào chúng ta quên rằng, chúng ta đã mắc và còn mắc phải vô số những thất bại và sai lầm”. V.I. Lênin cũng đã cảnh báo “giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền còn khó hơn”. Sự sụp đổ của Liên Xô đã cảnh tỉnh đối với các nước đang tiếp tục kiên định con đường xã hội chủ nghĩa nhận ra những khuyết tật của mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu cũ, rút ra cho mình những bài học quan trọng về đấu tranh để giữ vững chính quyền cách mạng; về xây dựng Đảng cộng sản cầm quyền, trong sạch, vững mạnh, gắn bó mật thiết và luôn chăm lo lợi ích thiết thực của nhân dân lao động, ra sức phát huy dân chủ rộng rãi, bảo đảm quyền con người chân chính; về thực hiện sự bình đẳng giữa các dân tộc; về xây dựng cơ chế quản lý nền kinh tế; về sự kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin và mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở đó, tìm ra các phương pháp, con đường tiếp cận mới để tiếp tục tiến lên, hiện thực hóa một cách sáng tạo lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế.
Vì thế, những tổn thất của chủ nghĩa xã hội hiện thực trong thế kỷ XX không làm suy giảm ý nghĩa lịch sử to lớn và lý tưởng cao đẹp của Cách mạng Tháng Mười. Những lý tưởng cao đẹp của Cách mạng Tháng Mười, như độc lập dân tộc, tự do cho nhân dân, hòa bình, dân chủ, bình đẳng, bác ái cho mọi người, xóa bỏ áp bức, bóc lột, xóa nghèo nàn, lạc hậu, phân biệt chủng tộc… vẫn là những giá trị mà hiện nay nhân loại đang tiếp tục theo đuổi và hướng tới. Lý tưởng Cách mạng Tháng Mười mãi mãi soi rọi cho nhân loại trên con đường đấu tranh vì một thế giới hòa bình, công bằng, dân chủ, bình đẳng và tiến bộ./.
Cách mạng Tháng Mười Nga vẫn là một trong những sự kiện vĩ đại nhất thế kỷ XX, là dấu mốc quan trọng trong lịch sử phát triển nhân loại. Mở ra chương mới trong lịch sử nhân loại khi những người vô sản ở Nga thành lập nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới.
Ngày 7/11/2019 đánh dấu 102 năm kể từ ngày những người Bolshevik giành thắng lợi trong cuộc cách mạng chấn động thế giới cuối năm 1917.
Năm 1917, nước Nga trải qua 2 cuộc cách mạng lớn vào tháng 2 và tháng 10, chấm dứt 200 năm trị vì của Nhà Romanov cũng như chấm dứt vĩnh viễn chế độ quân chủ ở Nga.
Sau những tháng đấu tranh, các thành phần cấp tiến nhất của phái tả Nga khi đó là đảng Bolshevik giành chiến thắng, lật đổ giai cấp tư sản, lần đầu tiên đưa giai cấp công nhân và nông dân lên nắm quyền ở xứ bạch dương.
Lãnh tụ Đảng Bolshevich V. I. Lenin tuyên bố thành lập chính quyền Xô Viết tại Đại hội Xô Viết ngày 7/11/1917 tại điện Smolny ngay sau khi chiếm Cung điện mùa Đông.
Cách mạng Tháng Mười Nga thực chất xảy ra vào tháng 11, Cách mạng Tháng Hai cũng diễn ra vào tháng 3. Nguyên nhân là do khác biệt trong hệ thống lịch.
Cho tới tận năm 1918, Nga vẫn sử dụng lịch cũ, hay lịch Julius do Hoàng đế La Mã Julius Caesar đưa ra từ năm 45 TCN. Lịch Julius lệch so với lịch Gregorius, còn gọi là lịch dương hay lịch mới, khoảng 2 tuần. Một trong những việc đầu tiên mà những người Bolshevik thực hiện sau khi giành chính quyền là chuyển sang dùng lịch mới.
Trên thực tế, sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, chính quyền Xô viết lập tức ban hành Sắc lệnh Hòa bình và Sắc lệnh Ruộng đất để giải quyết những vấn đề nhức nhối nhất ở Nga lúc bây giờ, đồng thời xóa bỏ chế độ phân biệt đẳng cấp, những đặc quyền của giáo hội Chính thống giáo ở Nga và thực hiện chính sách nam nữ bình đẳng.
Trước khi Cách mạng Tháng Mười Nga nổ ra, những người Bolshevik còn ngăn chặn thành công âm mưu thiết lập chế độ độc tài quân sự của tướng Kornilov và điều này khiến uy tín của họ trở nên rất cao. Những người Bolshevik cũng không sợ bất cứ điều gì cả, họ từng bị đặt ra ngoài vòng pháp luật trong nhiều năm và bị chính quyền Đế quốc Nga đàn áp thẳng tay.
Các nhà sử học cũng đánh giá rằng Vladimir Lenin, lãnh tụ của Đảng Bolshevik là lý do khiến những người Bolshevik giành được thắng lợi. Lenin thể hiện ông là nhà cách mạng chăm chỉ và dũng cảm – những bài phát biểu của ông lay động trái tim của người dân Nga lúc bấy giờ, và Lenin đã tổ chức rất tốt Đảng Bolshevik để đảng lãnh đạo cuộc cách mạng đi đến thắng lợi.
Đến mùa Thu năm 1917, người dân Nga tin tưởng Lenin hơn hẳn người đứng đầu Chính phủ Lâm thời Nga Alexander Kerensky, nhân vật được đánh giá là xảo quyệt nhưng kém cỏi. Đó là những lý do chính giúp những người Bolshevik giành thắng lợi trong Cách mạng Tháng Mười Nga.
Ngày 7/11, vào lúc 10 giờ sáng giờ địa phương (14 giờ Hà Nội), cuộc diễu binh kỷ niệm các giá trị của Cách mạng tháng Mười Nga đã bắt đầu trên Quảng trường Đỏ ở thủ đô Moskva, LB Nga.