viết đoạn văn 5-7 câu về cảm nhận của các chủ đề “Những câu hát châm biếm” “Những câu hát than thân” “Tình yêu quê hương đất nước” “Tình cảm gia đình”

viết đoạn văn 5-7 câu về cảm nhận của các chủ đề “Những câu hát châm biếm” “Những câu hát than thân” “Tình yêu quê hương đất nước” “Tình cảm gia đình” không chép mạng giúp em!! mọi người làm “Những câu hát than thân” giúp em:(( mai em cần r ạ

0 bình luận về “viết đoạn văn 5-7 câu về cảm nhận của các chủ đề “Những câu hát châm biếm” “Những câu hát than thân” “Tình yêu quê hương đất nước” “Tình cảm gia đình””

  1. Lập dàn ý

    I. Mở bài

    – Trong ca dao, bên cạnh những bài thể hiện tình cảm gắn bó tha thiết với quê hương, đất nước… còn có những bài hát than thân.

    – Ngoài nội dung than trách số phận khổ sở, bất hạnh, những câu hát đó còn chứa đựng ý nghĩa phản kháng, tố cáo xã hội phong kiến đầy áp bức, bất công.

    – Sau đây là một số câu hát tiêu biểu.

    II. Thân bài

    + Câu thứ nhất: Nước non lận đận một mình… cho gầy cò con?

    – Hình ảnh con cò mang ý nghĩa tượng trưng thường xuất hiện trong ca dao.

    – Người nông dân lam lũ, vất vả… hay mượn hình ảnh con cò để diễn tả về thân phận nhỏ bé, khổ cực của mình.

    – Nghệ thuật đối rất chỉnh (Nước non: gợi không gian mênh mông >< lận đận một mình: thân cò nhỏ bé, cô độc, lủi thủi kiếm miếng ăn. Thân cò: yếu đuối >< lên thác xuống ghềnh bấy nay: chịu đựng cuộc sống gian nan, khó nhọc).

    – Câu hỏi tu từ: Ai làm cho bể kia đầy; Cho ao kia cạn, cho gầy cò con? => âm hưởng ngậm ngùi, đau xót pha lẫn oán trách, căm giận. Cò con đã cam chịu số kiếp bé mọn, hẩm hiu, vậy mà vẫn bị những kẻ độc ác, bất nhân cố tình đẩy vào cảnh bể đầy, ao cạn khiến cho cuộc sống càng cơ cực, khổ sở.

    – Mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị hiện lên thấp thoáng sau từng câu, từng chữ, từng hình ảnh. Nội dung câu hát mang ý nghĩa tố cáo hiện thực xã hội rất cao.

    + Câu thứ hai: Thương thay thân phận con tằm… có người nào nghe?

    – Là một loạt hình ảnh so sánh giữa thân phận thấp kém của người nông dân với những loài vật bé nhỏ, tầm thường như con tằm, con kiến, con chim…

    – Từ cảm thán Thương thay lặp lại ở đầu câu tạo âm hưởng ngậm ngùi, chua xót, mang nỗi sầu thân phận hẩm hiu, bất hạnh.

    – Điệp ngữ: kiếm ăn được mấy và từ phải nhấn mạnh ý cuộc sống của người nghèo quá lầm than, cơ cực.

    – Hình ảnh chim bay mỏi cánh, cuốc kêu ra máu và các câu hỏi tu từ biết ngày nào thôi? Có người nào nghe? Đặc tả thân phận lênh đênh, đầy tủi hờn, oan ức giữa xã hội phong kiến bất công, ngang trái…

    + Câu thứ ba: Thân em như trái bần trôi…

    – Phản ánh số phận lênh đênh khốn khổ của người phụ nữ nghèo trong xã hội cũ.

    – Hình ảnh so sánh: Thân em như trái bần trôi có sức gợi cảm lớn. Cây bần mọc ven sông, rạch, trái rụng trôi theo dòng nước. Giữa hình ảnh trái bần trôi chịu bao gió dập sóng dồi với số phận hoàn toàn phụ thuộc, bị tước mất quyền tự do, quyền làm chủ bản thân của người phụ nữ nghèo có những nét giống nhau.

    – Ý nghĩa tố cáo: Xã hội phong kiến với nhiều áp bức, bất công… luôn tìm cách ràng buộc, nhấn chìm vai trò của người phụ nữ.

    III. Kết bài

    – Những câu hát than thân giờ đã lùi vào dĩ vãng.

    – Cách mạng đã giải phóng con người, đem lại quyền tự do, bình đẳng cho người phụ nữ trong xã hội.

    – Đọc những câu hát than thân, chúng ta càng thấm thía nỗi khổ của ông bà, cha mẹ ngày xưa, càng hiểu thêm giá trị cuộc sống tốt đẹp ngày nay.

    Bài mẫu 1

              Ca dao, dân ca là tấm gương phản ánh đời sống tâm hồn phong phú của nhân dân lao động. Nó không chỉ thể hiện tình cảm gắn bó thiết tha đối với quê hương, đất nước… mà còn là tiếng thở than về số phận bất hạnh và những cảnh ngộ khổ cực, đắng cay.

              Những câu hát than thân ngoài ý nghĩa than thân trách phận còn có ý nghĩa phản kháng, tố cáo sự thối nát, bất công của xã hội phong kiến đương thời. Điều đó được thể hiện chân thực và sinh động qua hệ thống hình ảnh, ngôn ngữ đa dạng, phong phú. Ba câu hát sau đây là những ví dụ tiêu biểu:

    1.

    Nước non lận đận một mình,

    Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay.

    Ai làm cho bể kia đầy,

    Cho ao kia cạn, cho gầy cò con?

    2.

    Thương thay thân phận con tằm,

    Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ.

    Thương thay lũ kiến li ti,

    Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi.

    Thương thay hạc lánh đường mây,

    Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi.

    Thương thay con cuốc giữa trời,

    Dầu kêu ra máu có người nào nghe.

    3.

    Thân em như trái bần trôi,

    Gió dập sóng dồi, biết tấp vào đâu?

           Cả ba câu hát đều sử dụng thể thơ lục bát cổ truyền với âm hưởng ngậm ngùi, thương cảm, cùng với những hình ảnh so sánh hoặc ẩn dụ thường thấy trong ca dao để diễn tả thân phận bé mọn của lớp người nghèo khổ trong xã hội cũ (con cò, con tằm, con kiến, trái bần… ). Mở đầu mỗi câu thường là những cụm từ như Thương thay… Thân em như… và nội dung ý nghĩa được thể hiện dưới hình thức câu hỏi tu từ.

           Trong ca dao xưa, người nông dân thường mượn hình ảnh con cò để diễn tả cuộc đời và thân phận bé mọn của mình, bởi họ tìm thấy những nét tương đồng ở loài chim quen thuộc ấy.

           Bức tranh phong cảnh nông thôn Việt Nam không thể thiếu những cánh cò lặn lội kiếm ăn trên cánh đồng, lạch nước. Cò gần gũi bên người nông dân lúc cày bừa, cấy hái vất vả. Cò dang cánh nối đuôi nhau bay về tổ lúc hoàng hôn… Con cò đã trở thành người bạn để người nông dân chia sẻ tâm tình:

     Nước non lận đận một mình,

    Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay.

            Nghệ thuật tương phản tài tình trong câu ca dao trên đã làm nổi bật hình ảnh đáng thương của con cò. Giữa trời nước mênh mông, cò lủi thủi, đơn côi, lầm lũi kiếm ăn. Thân cò vốn đã bé nhỏ lại càng thêm bé nhỏ. Đã vậy mà cò vẫn phải lên thác, xuống ghềnh, đương đầu với bao lỗi éo le, ngang trái. Câu ca dao như một tiếng thở dài não nề, như một lời trách móc, oán than trước nghịch cảnh của cuộc đời.

          Nhìn cái dáng lêu đêu, gầy guộc của con cò lặn lội đồng trên, ruộng dưới để mò tép, mò tôm, người nông dân ngậm ngùi liên tưởng tới thân phận mình phải chịu nhiều vất vả, nhọc nhằn và bất bình đặt ra câu hỏi nguyên cớ do đâu:

    Ai làm cho bể kia đầy,

    Cho ao kia cạn, cho gầy cò con?!

           Cò đã cam chịu số kiếp hẩm hiu, thế nhưng nó vẫn không được sống yên ổn trong cảnh bần hàn mà vẫn bị một ai đó, một thế lực nào đó đẩy vào bể đầy, ao cạn trớ trêu. Phải chăng đó chính là giai cấp thống trị trong xã hội cũ luôn muốn dồn người bị trị vào bước đường cùng?

          Cao hơn ý nghĩa của một câu hát than thân, bài ca dao trên chứa đựng thái độ phản kháng và tố cáo xã hội đương thời. Hình ảnh con cò ở đây tượng trưng cho thân phận long đong, khốn khổ của người nông dân nghèo vì sưu cao, thuế nặng, vì nạn phu phen, tạp dịch liên miên, vì sự bóc lột đến tận xương tủy của giai cấp thống trị.

           Vẫn theo mạch liên tưởng giống như ở bài ca dao thứ nhất, bài ca dao thứ hai là một ẩn dụ so sánh giữa thân phận của người nông dân với những loài vật bé nhỏ, tầm thường như con tằm, con kiến:

    Thương thay thân phận con tằm,

    Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ.

    Thương thay lũ kiến li ti,

    Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi.

    Thương thay hạc lánh đường mây,

    Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi.

    Thương thay con cuốc giữa trời,

    Dầu kêu ra máu có người nào nghe.

          Đây là câu hát nói về những số phận vất vả, bất hạnh. Điệp từ Thương thay được lặp lại bốn lần, biểu hiện sự thương cảm, xót xa vô hạn. Thương thay là thương cho thân phận mình và thân phận của những người cùng cảnh ngộ.

           “Thương thay thân phận con tằm/ Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ” là thương cho những người lao động nghèo khổ suốt đời bị kẻ khác bòn rút sức lực, công lao. “Thương thay lũ kiến li ti/ Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi ” là thương cho nỗi khổ chung của những thân phận nhỏ nhoi, suốt đời xuôi ngược vất vả làm lụng mà vẫn cơ cực, nghèo khổ. “Thương thay hạc lánh đường mây/ Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi” là thương cho những cuộc đời phiêu bạt, lận đận để kiếm sống qua ngày. “Thương thay con cuốc giữa trời/ Dầu kêu ra máu có người nào nghe” là thương cho những thân phận thấp cổ bé họng, suốt đời ôm khổ đau oan trái, không được ánh sáng công lí soi tỏ.

            Bốn câu ca dao là bốn nỗi xót thương. Sự lặp đi lặp lại ấy tô đậm mối cảm thông và xót xa cho những cuộc đời cay đắng nhiều bề của người dân nghèo trong xã hội cũ. Sự lặp lại còn có ý nghĩa kết nối, mở ra những niềm thương xót khác nhau và mỗi lần lặp lại, tình ý của bài ca lại được phát triển và nâng cao thêm.

    Bình luận

Viết một bình luận