viết văn Đề 1: Dân ta có câu tục ngữ: “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Em hãy chứng minh câu tục ngữ đó Đề 2: Ca dao Việt Nam có những câu quen thu

By Rose

viết văn
Đề 1: Dân ta có câu tục ngữ: “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Em hãy chứng minh câu tục ngữ đó
Đề 2: Ca dao Việt Nam có những câu quen thuộc:
Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn
Em hãy chứng minh câu đề trên
Đề 3: Nhân dân ta có câu tục ngữ:”Đi một ngày đàng học một sàng khôn” Hãy giải thích nội dung câu tục ngữ đó

0 bình luận về “viết văn Đề 1: Dân ta có câu tục ngữ: “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Em hãy chứng minh câu tục ngữ đó Đề 2: Ca dao Việt Nam có những câu quen thu”

  1. ĐỀ 1:

    Con người được xem chính là tổng hoà những mối quan hệ xã hội. Đó chính là sự tổng hòa giữa môi trường, hoàn cảnh xung quanh có ảnh hưởng rất lớn đối với mỗi người. Bàn về vấn đề này, tục ngữ có câu rất hay là “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”. như là một bài học sâu sắc cho chính chúng ta.

    Đầu tiên ta phải hiểu được câu tục ngữ có ý nghĩa gì? Mực được xem là một chất liệu để viết, có màu đen còn ngược lại đèn là một vật dụng phát ra ánh sáng. Gần ánh đèn mọi vật sẽ được soi sáng. Nhưng ta như lại thấy được rằng chính mực và đèn còn là hai hình ảnh tượng trưng cho môi trường sống của con người chúng ta hiện nay. Khi con người ta mà sống trong một môi trường xấu thì con người cũng sẽ bị ảnh hưởng những cái xấu xa. Nếu như mà con người sống trong một môi trường tốt thì con người đó cũng sẽ được ảnh hưởng những điều tốt đẹp. Từ đó, ta như thấy được ông cha ta muốn khuyên dạy chúng ta phải biết chọn cho mình một môi trường sống thật tốt. Có lẽ cũng chính bởi vì môi trường sống có ảnh hưởng lớn tới nhân cách của con

    Vậy, tại sao ông cha ta lại có câu tục ngữ khuyên răn chúng ta đó chính là câu “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”? Ta phải như thấy được chính mỗi một người đều sống trong một môi trường khác nhau nhưng phải biết chọn cho mình một môi trường sống tốt. Thật vậy, môi trường sống tốt đó là một môi trường biết đoàn kết yêu thương, biết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ….Cũng chính vì thế mà nếu chúng ta không biết chọn cho mình một môi trường sống tốt đẹp thì nhân cách của chúng ta cũng sẽ bị ảnh hưởng. Câu tục ngữ tuy ngắn gọn những cũng như đã khuyên dạy chúng ta tránh xa môi trường xấu, không lành mạnh vì khi chúng ta sống trong đó chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng rất nhiều. Ngược lại ta có thể thấy được nếu như một môi trường lành mạnh, mọi người ai ai cũng có ý thức thì bỗng nhiên ta cũng sẽ chịu những sự tác động của môi trường lý tưởng đó để mà có thể sống tốt đẹp hơn rất nhiều.

    Không phải ngẫu nhiên mà người học sinh chúng ta nhất là trẻ thơ được ví như tờ giấy trắng. Chúng ta vẽ gì lên đó hay cho các em sống ở những môi trường sống khác nhau thì tính cách cũng sẽ bị ảnh hưởng ít nhiều. Cho nên để mà có thể giữ được nhân phẩm của mình thì nên chọn những môi trường tốt. Có thế nên vai trò của môi trường sống vô cùng quan trọng tới việc hình thành nhân cách của con người. Điều này có nghĩa là tất cả chúng ta phải xa lánh những tệ nạn xã hội, chúng ta cũng đường như cũng sẽ phải biết chọn bạn mà chơi để nhân cách của mình không bị vẩn đục. Mỗi người cũng phải biết phân tích giảng giải cho bạn bè hiểu được gía trị của phẩm chất đạo đức con người. Chúng ta cũng phải luôn luôn biết được bổn phận của người học sinh, và đồng thời cũng như phải biết gần gũi thân ái với bạn bè để xung quanh chúng ta luôn có môi trường sống tốt đẹp để chúng ta hoàn thiện nhân cách của mình hơn nữa.

    ĐỀ 2:

    Từ bao đời nay, khi những người mẹ, người bà cất lên lời hát ru con ru cháu từ những câu ca dao quen thuộc, gần gũi, thì trong nôi, mỗi đứa trẻ đã được nghe về lòng yêu thương và sự gắn bó của con người Việt Nam trong cuộc sống. Bởi ca dao là tiếng nói của tâm hồn Việt, là sự ngợi ca truyền thống đoàn kết bao đời, mà từ đó, chúng ta có nguồn sức mạnh để vượt qua thiên tai, địch họa. Một trong những câu ca dao thân thương, gần gũi nhất với chúng ta:

    Bầu ơi, thương lấy bí cùng.
    Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.

    Có thể nói, người xưa rất khéo léo, tinh tế khi mượn những hình ảnh giản dị trong cuộc sống của nhân dân lao động để chuyển tải những ý tứ lớn lao, cao đẹp. Bầu và bí là hai loài cây được trồng nhiều ở nông thôn Việt Nam. Người dân có thể trồng bầu và bí trên cùng một giàn, dây leo của chúng quấn quýt chẳng phân biệt, khiến cho giàn cây ngày càng xum xuê, xanh tốt, đẹp đẽ. Dân tộc Việt Nam gồm 54 dân tộc anh em, cũng như những loài cây quấn quýt bên nhau trên dải đất hình chữ S thân thương. Họ cùng nhau sinh sống, lao động, chiến đấu, nâng đỡ lẫn nhau khi gặp khó khăn. Đó là một truyền thống vô cùng cao đẹp.

    Truyền thống yêu thương và đoàn kết đã được khẳng định bởi những minh chứng trong suốt chặng đường lịch sử Việt Nam. Chính tinh thần đoàn kết của nhân dân ta đã tạo nên nét đẹp văn hóa của nền văn minh lúa nước lâu đời, đó là sự hỗ trợ nhau để cùng canh tác, để khắc phục thiên tai, xây đời no ấm. Hệ thống đê điều vĩ đại ở đồng bằng Bắc bộ là bằng chứng hùng hồn cho truyền thống lâu đời, cao đẹp đó. Người dân lao động xưa còn gắn bó với nhau trong tình làng nghĩa xóm, “bán anh em xa, mua láng giềng gần”, hay “hàng xóm tối lửa tắt đèn có nhau”. Lời nhắn nhủ của bầu và bí về tình yêu thương đã được thể hiện giản dị mà sâu sắc như thế đó.

    Truyền thống yêu thương, đoàn kết còn được bộc lộ rõ nhất khi Tổ quốc lâm nguy, khi giặc ngoại xâm giày xéo mảnh đất thân thương, gieo tội ác xuống đời thanh bình của nhân dân. Khi đó, sức mạnh để ta thắng giặc chính là sức mạnh kết thành một khối của cả dân tộc. Thời Lý, để tạo sức mạnh cho toàn quân đánh tan giặc Tống trên sông Như Nguyệt, Lý Thường Kiệt đã viết lên bài thơ “thần” nổi tiếng rằng “Nam quốc sơn hà Nam đế cư…”. Chính từ đó mà sĩ khí lên cao, đánh thắng giặc mạnh. Hay đến đời nhà Trần, trong Hịch tướng sĩ, Trần Hưng Đạo cũng khẳng định tình cảm gắn bó với tướng sĩ: “Các ngươi ở lâu dưới trướng, nắm giữ binh quyền, không có mặc thì ta cho áo; không có ăn thì ta cho cơm. Quan thấp thì ta thăng tước; lộc ít thì ta cấp lương. Đi thủy thì ta cho thuyền; đi bộ thì ta cho ngựa. Lâm trận mạc thì cùng nhau sống chết; được nhàn hạ thì cùng nhau vui cười”. Đó chính là nguồn cội để dân tộc Việt Nam thắng quân xâm lược Mông Nguyên hung tàn đến tận ba lần. Cũng tương tự như vậy, trong tác phẩm Đại cáo bình Ngô, tác giả Nguyễn Trãi đề cao sự gắn bó, đoàn kết của quân dân, để cùng nhau đuổi giặc Minh ra khỏi bờ cõi, bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng đời thái bình thịnh trị. Đó là những câu:

    “Nhân dân bốn cõi một nhà,
    Dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
    Tướng sĩ một lòng phụ tử,
    Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.
    Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
    Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.”

    Phát huy truyền thống ấy, trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Bác Hồ luôn nêu cao chân lý “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết! Thành công, thành công, đại thành công!”. Từ đó, cả dân tộc đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, như dây bầu dây bí, tuy mỏng manh, nhưng khi gắn bó với nhau, kết lại trong tình yêu thương, đoàn kết thì tạo ra sức mạnh vô địch.

    Ngày nay, trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới, tình “bầu thương lấy bí cùng” ấy vẫn được phát huy trong mọi hoàn cảnh. Mỗi khi miền Bắc, miền Trung hay miền Tây gặp thiên tai, thì ở khắp nơi lại dậy lên những phong trào “lá lành đùm lá rách”, hỗ trợ đồng bào vượt qua phút khó khăn, thử thách. Cũng nhờ đó, nhiều người cơ nhỡ bất hạnh được hỗ trợ, có cơ hội tìm được bình yên và hạnh phúc cho mình. Tính “bầu bí” sao mà đẹp đến thế! Ta lại nghĩ đến một câu ca khác tương tự:

    “Nhiễu điều phủ lấy giá gương
    Người trong một nước phải thương nhau cùng”

    Thấm nhuần truyền thống cao đẹp của dân tộc, thế hệ trẻ hôm nay càng trân trọng thêm tình đồng bào, và đó chính là một biểu hiện của tình yêu đất nước. Để phát huy truyền thống, những người trẻ nên biến yêu thương thành hành động cụ thể: Tham gia công tác xã hội, giúp đỡ nhân dân, đi đầu trong mọi hoạt động hữu ích…

    Thế đấy, dù thời gian có trôi đi, những giá trị chân chính và đẹp đẽ của người Việt Nam cũng không bao giờ có thể phai mờ. Những giá trị ấy còn được lưu giữ trong lời ca dao, và tỏa sáng trong đời thường của người Việt Nam hôm nay, giúp cho đất nước ta ngày càng lớn mạnh, vững bền.

    ĐỀ 3:

    Ông cha ta từ xưa đã có có rất nhiều câu tục ngữ hay, đúc rút thành bài học sâu sắc để lại cho con cháu đời sau. “Đi một ngày đàng học một sàng khôn” là câu tục ngữ ngắn gọn nhưng hàm chứa ý nghĩa sâu sắc, răn dạy con cháu phải đi đó đây, va chạm vào cuộc sống để tiếp thu học hỏi, nâng cao sự hiểu biết cho bản thân mình.

    Để hiểu được ý nghĩa sâu sắc trong câu tục ngữ, trước tiên chúng ta cần cắt nghĩa được hình ảnh trong câu. Nhân dân ta đã sử dụng những hình ảnh rất trừu tượng nhưng lại khá cụ thể “ngày đàng”, “sàng khôn” để truyền tải thông điệp tới mọi người. “Đàng” là một cách nói của nhiều vùng miền trên cả nước, đồng nghĩa với “đường”. Người xưa thường nói khoảng cách bằng ngày đường, một ngày đường hoặc hai ngày đường để tới một địa điểm nào đó. “Sàng” là một vật dụng quen thuộc trong mỗi gia đình người nông dân. “Sàng” to gần bằng cái mâm ăn cơm, được đan bằng tre, nứa dùng để sàng lúa gạo, phục vụ trong lao động, sản xuất và đời sống hàng ngày. Ở đây, tác giả dân gian có một cách nói rất thú vị là “sàng khôn”. Thường thì trí khôn là thứ khó có thể cân, đo, đong, đếm nhưng với cách nói “sàng khôn” khiến cho người đọc người nghe dễ hình dung về số lượng. Bởi lẽ, nhân dân ta từ xa xưa chủ yếu làm nông nghiệp nên cách nói “sàng khôn” phù hợp, dễ hiểu và mang tính chất dân dã đối với mọi người. “Sàng” dùng để sàng lọc lúa gạo, ngũ cốc nên cách nói “sàng khôn” cũng ám chỉ sự chắt lọc, sàng lọc kiến thức, thu nhận kiến thức một cách có chọn lọc chứ không vơ cả. Bởi vậy, nhân dân ta mới nói “sàng khôn”, chứ không nói “rổ khôn” hay “túi khôn”. Câu tục ngữ mang ý nghĩa, con người cứ đi “một ngày đàng” thì sẽ học được cả “một sàng khôn”, còn loanh quanh mãi lũy tre làng thì không khôn lên được.

    Từ việc cắt nghĩa hình ảnh trong câu tục ngữ “Đi một ngày đàng học một sàng khôn”, ông cha ta muốn răn dạy con cháu phải luôn không ngừng học hỏi, đi khắp đó đây, từng trải cuộc sống để nâng cao tầm hiểu biết của bản thân. Ông cha ta từ xa xưa đã nhận thức được sự rộng lớn của tri thức là mênh mông, vô bờ, nếu không chịu học hỏi sẽ tự làm mình trở nên kém hiểu biết, bởi vậy luôn đề cao sự chăm chỉ học hỏi, mở rộng kiến thức.

    Câu tục ngữ làm ta nhớ đến câu chuyện ngụ ngôn “Ếch ngồi đáy giếng” có con ếch cả đời chẳng đi đâu, chỉ quanh quẩn trong cái giếng nên tầm nhìn hạn chế, kém hiểu biết. Đến khi được ra khỏi cái giếng thì vẫn giữ thái độ huênh hoang, không sợ ai cả, không chịu nhìn nhận thế giới rộng lớn bên ngoài nên đã bị có trâu dẫm bẹp.

    Trong xã hội phát triển hội nhập như ngày nay, câu tục ngữ “Đi một ngày đàng học một sàng khôn” lại càng có một ý nghĩa lớn lao hơn. Khoa học kỹ thuật, y học…trên thế giới ngày càng phát triển tiến bộ bượt bậc, công nghệ thông tin ngày càng phát triển và thay đổi không ngừng, điều đó càng cần chúng ta phải nỗ lực không ngừng, chịu khó học hỏi, đi khắp năm châu các nước tiên tiến trên thế giới để học hỏi áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào lao động, sản xuất. Có thế thì đất nước ta mới trở nên giàu mạnh, nhân dân mới ấm no, hạnh phúc. Nếu không chịu học hỏi, tiếp thu thì đất nước sẽ bị tụt hậu, bị bỏ lại phía sau. Trong bối cảnh này, thì câu tục ngữ cùng lời răn dạy của cha ông ta là bài học quý báu hơn bao giờ hết.

    Qua câu tục ngữ “Đi một ngày đàng học một sàng khôn”, ông cha ta muốn răn dạy con cháu đời đời phải luôn không ngừng nỗ lực học tập, đi đó đây để nâng cao tầm hiểu biết. Đặc biệt đối với thế hệ trẻ ngày nay, mùa xuân tương lai của đất nước đang nằm trong tay tuổi trẻ, những người nhiệt huyết và hăng hái cần trau dồi tri thức để đưa đất nước phát triển và đi xa hơn nữa.

    Trả lời

Viết một bình luận